Afleveringen

  • Chủ tịch nước kiêm tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đã đến New York cuối tuần qua để dự Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Theo thông báo của Nhà Trắng, nhân djp này ông Tô Lâm sẽ gặp tổng thống Mỹ Joe Biden hôm thứ tư 25/09/2024 bên lề Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Chuyến đi Hoa Kỳ của ông Tô Lâm liệu có sẽ là cơ hội để thúc đẩy quan hệ Mỹ-Việt, trong bối cảnh vừa có những thay đổi trong thượng tầng lãnh đạo ở Hà Nội?

    Trong bài viết đăng trên trang mạng The Diplomat ngày 29/08/2024, nhà báo chuyên về châu Á David Hutt cho biết ông nghe nói rằng Việt Nam đã muốn chuyến đi của ông Tô Lâm ở Hoa Kỳ là chuyến thăm cấp nhà nước chính thức. Nhưng cuối cùng thì chuyến đi Hoa Kỳ của ông Tô Lâm chỉ là chuyến đi "làm việc" theo thông báo của bộ Ngoại Giao Việt Nam ngày 19/09. Theo David Hutt, Hà Nội có thể sẽ không quá nản lòng với một cuộc gặp gỡ ngắn ngủi như vậy. Bất kỳ cuộc gặp nào giữa ông Tô Lâm với ông Biden hoặc bà Harris đều phần lớn mang tính biểu tượng, "điều quan trọng là họ gặp nhau".

    Trên trang mạng Geopolitical Monitor ngày 18/09/2024, nhà nghiên cứu độc lập James Borton nhận định chuyến đi của ông Tô Lâm tại Hoa Kỳ có thể sẽ giúp làm nổi bật ý nghĩa của thỏa thuận về quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện mà hai nước đã đạt được vào năm ngoái.

    Ông Borton nhắc lại tổng thống Joe Biden đã từng ca ngợi mối quan hệ ngày càng phát triển giữa Hoa Kỳ và Việt Nam và cũng đã gởi lời chúc mừng tới chủ tịch nước Tô Lâm khi ông được bầu làm tổng bí thư, bày tỏ “sự lạc quan về chương mới trong sự lãnh đạo của Việt Nam”. Theo tổng thống Biden, chương mới đó là một cơ hội rất tốt để hai nước tăng cường quan hệ chiến lược và hợp tác trong những vấn đề thiết yếu như tăng trưởng kinh tế, an ninh khu vực, thương mại và chống biến đổi khí hậu.

    Trong bài viết nói trên, nhà nghiên cứu James Borton còn lưu ý phó tổng thống Kamala Harris, ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ, cũng đã nhanh chóng thừa nhận vai trò quan trọng của Việt Nam trong khu vực với tư cách là đối tác chiến lược của Hoa Kỳ. Mặc dù có sự khác biệt về hệ thống chính trị và hệ tư tưởng, Hoa Kỳ đã cố xây dựng mối quan hệ dựa trên thiện chí và lòng tin hiện có giữa Hà Nội và Washington.

    Tuy nhiên, theo ông Borton, nhân quyền vẫn là một chủ đề nhạy cảm trong quan hệ Mỹ-Việt Nam. Hoa Kỳ thường nêu ra các vấn đề về tự do ngôn luận, quyền lao động và bất đồng chính kiến, trong khi Việt Nam coi đây là những vấn đề nội bộ. Các vấn đề chính trị và nhân quyền vẫn là những điểm bế tắc có thể ảnh hưởng đến bang giao lâu dài.

    Trước chuyến đi Hoa Kỳ của thăm của ông Tô Lâm, chính phủ Việt Nam đã trả tự do trước thời hạn cho một số nhà hoạt động hàng đầu, đó là ông Trần Huỳnh Duy Thức, nhà hoạt động nhân quyền bị kết án tù 16 năm vào năm 2010 về tội " Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền" và bà Hoàng Thị Minh Hồng, nhà hoạt động môi trường đang thọ án 3 năm tù về tội "gian lận thuế" sau khi bị kết án vào năm ngoái. Hành động này có thể báo hiệu những nhượng bộ tiềm tàng của Hà Nội đối với mối quan ngại của Washignton về các vấn đề nhân quyền tại Việt Nam.

    Ngoài ra còn phải tính đến "yếu tố Trung Quốc". Trước khi đến Hoa Kỳ, ông Tô Lâm đã chọn Trung Quốc để mở chuyến công du ngoại quốc đầu tiên với tư cách tổng bí thư đảng. Đây là chuyện bình thường theo truyền thống ngoại giao của Việt Nam với láng giềng Cộng sản phương bắc. Nhưng trong khi quan hệ Việt-Trung có vẽ rất hữu hảo, thì quan hệ Việt – Mỹ dường như đang gặp vấn đề, nhất là qua việc Washington đã từ chối công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường. Trả lời RFI qua điện thoại ngày 05/09/2024, tiến sĩ Vũ Xuân Khang, hiện là học giả thỉnh giảng (visiting scholar) về quan hệ quốc tế tại đại học Boston College, Hoa Kỳ, nhận định:

    "Quan hệ Việt Nam với Mỹ chỉ có thể phát triển bình thường và ổn định khi Việt Nam có thể trấn an Trung Quốc rằng các phát triển trong quan hệ Việt-Mỹ sẽ không làm tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc. Do vậy, việc ông Tô Lâm đi thăm Trung Quốc trước khi đi thăm Mỹ là một bước đi cần thiết để tạo tiền đề cho chuyến thăm Mỹ sắp tới, chứ hoàn toàn không thể hiện Việt Nam ngả theo bên này hay bên kia.

    Rõ ràng là việc Washington từ chối công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường là một bước lùi rất lớn trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước, nhất là khi Việt Nam đặt việc Mỹ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường là ưu tiên trong quan hệ với Mỹ. Cần phải nói rõ: Việt Nam không được công nhận không phải là do Việt Nam không có nền kinh thế thị trường thực sự, mà là do Mỹ vẫn còn nhiều nghi kỵ đối với chính quyền Cộng sản ở Việt Nam.

    Trong Chiến tranh lạnh, Mỹ sẵn sàng công nhận kinh tế thị trường với các nước đồng minh châu Á như Hàn Quốc, Nhật Bản, hay Đài Loan, mặc dù các nước này lúc bấy giờ có nền kinh tế phi thị trường và không có công đoàn độc lập như Mỹ yêu cầu. Mỹ đã cấp quy chế kinh tế thị trường để bảo đảm là các nước này phát triển thần kỳ, nhanh chóng, dưới sự bảo hộ của Mỹ và từ đó có thể giúp Mỹ chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản.

    Tuy nhiên,Việt Nam hiện tại không nhận được ưu ái đó, do chưa phải là đồng minh của Mỹ, cũng như tiếng nói chống Cộng sản của đại bộ phận cộng đồng người Mỹ gốc Việt vẫn còn rất lớn. Yếu tố ý thức hệ này sẽ là vật cản lớn, song song với các sức ép từ phía Trung Quốc buộc Việt Nam giữ vị trí trung lập trong quan hệ Việt-Mỹ."

    Khi tỏ ra quá thân thiện với ông Tập Cận Bình nói riêng và với Bắc Kinh nói chung, thể hiện qua chuyến đi Trung Quốc vừa qua của ông Tô Lâm, liệu Hà Nội có sẽ khiến chính quyền Biden nghi ngờ về thực tâm của Việt Nam muốn phát triển hơn nữa quan hệ với Hoa Kỳ? Ngược lại, Hà Nội đã thật sự có sự tin cậy vào Washington, hay vẫn còn ngờ vực về ý đồ thật sự của Mỹ? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang cố giải đáp những câu hỏi đó:

    "Yếu tố ý thức hệ là một trong những nguyên nhân chính đằng sau việc Mỹ không công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, và như tôi đã nói thì quan hệ Việt - Mỹ chỉ có thể phát triển bình thường và ổn định khi Việt Nam có thể trấn an Trung Quốc rằng các phát triển trong quan hệ Việt-Mỹ không làm tổn hại đến lợi ích của Trung Quốc.

    Nếu như so sánh yếu tố ý thức hệ trong quan hệ Việt-Trung trong chuyến thăm vừa qua của ông Tô Lâm với quan hệ Việt- Mỹ, có thể thấy là Việt Nam và Trung Quốc đều đạt được đồng thuận về việc phải duy trì ổn định chính trị ở mỗi nước. Khác với Mỹ, Trung Quốc không có nhu cầu hay lợi ích nào trong việc ủng hộ cách mạng màu hay lật đổ chế độ cộng sản ở Việt Nam, do nếu Việt Nam gặp bất ổn chính trị thì Trung Quốc cũng sẽ bị vạ lây, do là láng giềng với nhau. Trung Quốc vẫn mong muốn Việt Nam phát triển ổn định và trung lập.

    Trái lại thì Mỹ mặc dù trấn an Việt Nam rằng họ tôn trọng chính quyền Cộng sản Việt Nam, tuy nhiên việc Mỹ vẫn ủng hộ các tổ chức đối lập với nhà nước Việt Nam sẽ tiếp tục khiến Hà Nội nghi ngờ mục tiêu thật sự của Mỹ. Khác với Trung Quốc, Mỹ không phải chịu ảnh hưởng trực tiếp nếu cách mạng lật đổ chế độ cộng sản Việt Nam nổ ra, do Mỹ ở rất xa.

    Mỹ không công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường sẽ càng xác nhận với phía Việt Nam là Mỹ vẫn chưa đủ thiện chí để nâng cấp quan hệ hai nước thêm sâu rộng hơn, vì thật ra, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ hiện nay vẫn chưa có thực chất. Ông Tô Lâm thăm Mỹ với vai trò tổng bí thư sẽ giúp Đảng Cộng sản Việt Nam tăng uy tín với chính giới Mỹ. Tuy vây, việc tăng uy tín đó có khiến Mỹ thôi ủng hộ các tổ chức chống nhà nước Việt Nam hay không thì chúng ta chưa thể biết rõ."

    Tuy vậy, theo ghi nhận của nhà nghiên cứu James Borton, chuyến thăm gần đây của bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang tại Washington ngày 09/09/2024 có ý nghĩa quan trọng đối với quan hệ đối tác an ninh đang phát triển giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Chuyến thăm nhằm mục đích tăng cường hợp tác quốc phòng giữa hai quốc gia, tập trung vào các lĩnh vực như an ninh hàng hải, hiện đại hóa quốc phòng và hoạt động gìn giữ hòa bình. Chuyến thăm cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì ổn định khu vực, đặc biệt là ở Biển Đông, nơi cả hai nước cùng chia sẻ mối quan tâm về tự do hàng hải và luật pháp quốc tế.

    Nhưng với việc hai nước nay đã nâng quan hệ lên thành đối tác chiến lược toàn diện, liệu Việt Nam có thể dựa vào Mỹ nhiều hơn để đối phó với Trung Quốc ở Biển Đông? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang đánh giá về khả năng đó:

    "Nếu chúng ta nhìn cách Mỹ ủng hộ đồng minh Philippines ở Biển Đông thì sẽ thấy là Mỹ họ cũng ngại bị kéo vào tranh chấp lãnh thổ giữa đồng minh và Trung Quốc. Mặc dù Trung Quốc bắt nạt Philippines từ đầu năm đến nay rất nhiều, nhưng Mỹ đã không có hành động nào cụ thể để bảo vệ đồng minh. Việt Nam nên nhìn qua Philippines để hiểu là sẽ không dễ mà Mỹ can thiệp vào tranh chấp lãnh thổ hay lãnh hải giữa Việt Nam và Trung Quốc.

    Trái lại, việc Việt Nam không phải đồng minh với Mỹ lại có lợi cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ quyển trên biển, khi Trung Quốc im lặng và không bắt nạt Việt Nam, bất chấp Việt Nam đã cải tạo và bồi đắp đảo diện rộng lớn hơn Philippines rất nhiều. Trung Quốc muốn cho Việt Nam thấy là chỉ cần Việt Nam không liên minh với Mỹ thì họ có thể nhân nhượng trên biển, để Việt Nam cũng được có lợi.

    Chưa kể trong tương lai sắp tới, khi cán cân sức mạnh quân sự trên Biển Đông ngày càng nghiêng về Trung Quốc, Mỹ sẽ càng ngại và càng khó mà hỗ trợ đồng minh và đối tác trong khu vực. Chỉ cần nhìn qua Philippines, Việt Nam nên thấy là quan hệ đồng minh với Mỹ sẽ không giải quyết được cả các vấn đề an ninh nổi cộm hiện nay."

    Trong bài viết trên trang Geopolitical Monitor, nhà nghiên cứu James Borton nhấn mạnh kết quả cuộc bầu cử tổng thống tháng 11/2024 sẽ có tác động lớn đến quan hệ quốc tế của Mỹ, ảnh hưởng đến chính sách thuế quan và các hiệp định thương mại. Nếu phó tổng thống Harris đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, quan hệ Mỹ-Việt chắc là sẽ không có thay đổi đáng kể. Trong khi đó, dưới thời cựu tổng thống Donald Trump, Washington đã rút ra khỏi hiệp định tự do mậu dịch Đối tác xuyên Thái Bình Dương và thi hành một chính sách thiên về chống toàn cầu hóa và chống tự do mậu dịch. Nếu Donald Trump trở lại Nhà Trắng, quan hệ Mỹ - Việt có sẽ thay đổi nhiều? Liệu chính sách ngoại giao "cây tre" của Việt Nam, giữ thế cân bằng trong quan hệ với các cường quốc đối địch, sẽ còn tác dụng đối với chính quyền Trump 2 hay không? Nhà nghiên cứu Vũ Xuân Khang nhận định:

    "Hiện hãy còn quá sớm để đánh giá được chính sách đối ngoại của chính quyền Donald Trump nhiệm kỳ 2 đối với Việt Nam. Nhưng có một điểm khá là bất ngờ đối với nhiều học giả, đó là nếu nhìn vào chính sách ngoại giao của tổng thống Trump nghiệm kỳ thứ nhất, thì ông cũng không đi ngược lại những truyền thống ngoại giao của Mỹ đến mức trầm trọng như nhiều người dự đoán. Trong giai đoạn 2017-2021, chính quyền tổng thống Trump vẫn rất sẵn lòng tôn trọng chính sách ngoại giao "cây tre" của Việt Nam và cũng rất sẵn sàng tăng cường hợp tác quốc phòng với giữa hai nước. vẫn được chính quyền Trump hợp tác và ủng hộ . Do vậy, theo tôi, chính sách ngoại giao « cây tre » của Việt Nam vẫn sẽ hiệu quả đối với chính quyền Trump 2.

    Tuy vậy, nếu quan hệ Mỹ-Trung trở nên trầm trọng hơn dưới nhiệm kỳ 2 của tổng thống Trump, rõ ràng là dư địa để Việt Nam có thể sử dụng ngoại giao "cây tre" nhằm cân bằng quan hệ với Mỹ và Trung Quốc sẽ ngày càng hẹp lại."

  • Mỹ sẽ tặng Việt Nam tàu tuần duyên thứ ba từ nay đến cuối năm 2024. Washington được cho là đang đàm phán bán máy bay vận tải C-130J cho Hà Nội. Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Năm thăm Mỹ đúng kỉ niệm một năm hai nước nâng cấp quan hệ song phương lên mức cao nhất - Đối tác chiến lược toàn diện. “Sự gia tăng hợp tác quân sự giữa Hoa Kỳ và Việt Nam trong suốt năm qua” đã được bộ trưởng Quốc Phòng Lloyd Austin nhấn mạnh khi tiếp đồng nhiệm Phan Văn Giang ngày 09/09.

    Tất cả những sự kiện này đánh dấu “giai đoạn mới trong hợp tác hữu nghị” giữa hai nước, cho đến nay “vẫn suôn sẻ và đi theo hướng mà cả hai nước đều mong muốn”. Để hiểu hơn về những chuyển biến mới trong quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt, đặc biệt là mức độ tin cậy nhau, RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, Canberra, Úc.

    RFI : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam vừa kết thúc chuyến thăm Hoa Kỳ. Có thể hiểu đây là một dấu hiệu mới cho việc thắt chặt quan hệ quốc phòng và an ninh song phương ?

    Nguyễn Thế Phương : Bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang thăm Mỹ đợt này hơi đặc biệt tại vì chuyến thăm này khá dài, tầm 4-5 ngày, cho nên lịch trình sẽ dầy và tập trung nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở thời điểm hiện tại, chưa rõ cụ thể chương trình nghị sự của bộ trưởng Giang nhưng chuyến thăm này đánh dấu bước đi tiếp theo cho quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, bởi vì tháng 9 này kỉ niệm đúng một năm hai nước nâng cấp quan hệ.

    Đọc thêm : Nâng quan hệ Mỹ-Việt lên Đối tác chiến lược: Lợi ích và trở ngại

    Ở đây cần nhấn mạnh đến một số điểm. Thứ nhất, quan hệ đối tác chiến lược toàn diện Việt-Mỹ ở thời điểm hiện tại thường vẫn được nhấn mạnh đến quan hệ kinh tế và thương mại, còn quan hệ an ninh và quốc phòng thường được đặt bên dưới. Chuyến thăm Mỹ lần này của bộ trưởng Giang phần nào đó sẽ giúp cho Việt Nam hiểu được Mỹ sẽ muốn gì trong mối quan hệ an ninh quốc phòng giữa hai bên trong tương lai. Và cũng để cho phía Mỹ hiểu rõ hơn là Việt Nam thực sự muốn gì ở Mỹ, đặc biệt trong vấn đề giúp Việt Nam cải thiện một số năng lực, nhất là năng lực hàng hải, hoặc những chuyển động quốc phòng sâu sắc hơn trong tương lai cho xứng tầm quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Đây là điểm mấu chốt trong chuyến thăm của bộ trưởng Giang.

    Ngoài ra, có thể đây là chuyến thăm mở đường cho chuyến thăm của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sắp tới. Đây cũng là chuyến thăm để Việt Nam dò chính sách của Mỹ, đặc biệt trong bối cảnh chỉ còn hai tháng nữa là bầu cử tổng thống.

    RFI : Năm 2023 từng có thông tin Việt Nam và Mỹ bàn khả năng mua sắm chiến đấu cơ F-16 nhưng đàm phán bị dừng lại. Hiện tại có thông tin Mỹ đang thảo luận với Việt Nam về việc bán máy bay vận tải quân sự Lockheed Martin C-130J Hercules cho Hà Nội. Tại sao lại có sự thay đổi này ? Liệu việc mua máy bay, dù là máy bay vận tải, sẽ là một bước ngoặt cho mối quan hệ hợp tác giữa hai nước ?

    Nguyễn Thế Phương : Thông tin Việt Nam đàm phán với Mỹ về việc mua các loại vũ khí, khí tài của Mỹ, đặc biệt là F-16, đã xuất hiện từ cách đây 2, 3 năm chứ không phải là một vấn đề mới. Nhìn chung, nếu như Việt Nam mua vũ khí, khí tài của Mỹ thì đây cũng sẽ là một bước ngoặt. Đó sẽ là một dấu hiệu cho thấy mối quan hệ hợp tác quốc phòng giữa hai bên được nâng lên một tầm mức mới, bởi vì để Việt Nam mua vũ khí của Mỹ thì mức độ lòng tin chiến lược trong an ninh quốc phòng giữa hai bên, đặc biệt là từ phía Việt Nam đối với Mỹ, đã được nâng lên một tầm mức nào đó rồi.

    Việt Nam cũng đã chuẩn bị từ trước cho những quyết định mua sắm đó. Thứ nhất, Việt Nam gửi một số sĩ quan không quân, những đội hậu cần qua Mỹ để huấn luyện và học tập từ cách đây 2, 3 năm. Thứ hai, Việt Nam vừa mới khai trương một sân bay ở Phan Thiết. Người ta cho rằng sân bay này được dành cho việc triển khai một số loại máy bay huấn luyện sẽ mua của Mỹ trong tương lai. Có thể thấy Việt Nam đã chuẩn bị hết về nhân lực, cơ sở hạ tầng cho vấn đề mua sắm trang thiết bị vũ khí mà ở đây là các loại máy bay Mỹ.

    Đọc thêm : Hoa Kỳ và Việt Nam thảo luận về việc mua bán máy bay vận tải quân sự C-130

    Thông tin Việt Nam mua máy bay F-16 của Mỹ bị dừng lại cũng không phải là điều quá bất ngờ: Thứ nhất, F-16 là một loại vũ khí mang tính tấn công mà ở thời điểm hiện tại, nếu Việt Nam mua của Mỹ thì sẽ rất nhạy cảm, đặc biệt là đặt trong mối quan hệ với Trung Quốc. Bên cạnh đó, còn có một số yếu tố khác, mang tính kỹ thuật. Liệu hai bên có sẽ trao đổi vấn đề mang tính kỹ thuật về vũ khí, về bảo dưỡng, bảo trì không ? Đây cũng là điểm “nhạy cảm”. Việc Mỹ có cho phép mua vũ khí đi kèm hay không cũng là một chuyện cần bàn thảo sâu hơn trong tương lai. Hiện tại, những vấn đề đó dường như vẫn là những khúc mắc mà hai bên chưa giải quyết được.

    Trong khi đó C-130 chỉ là một loại máy bay vận tải phi tác chiến. Cho nên việc Việt Nam có khả năng mua C-130 cũng có thể được giải thích theo hướng là sẽ giúp Việt Nam cải thiện năng lực phòng thủ, năng lực không vận, vốn là năng lực mà Việt Nam vẫn còn yếu. C-130 mang tính phòng thủ, không mang tính tấn công, bớt tính nhạy cảm và một phần nào đó cũng giúp cải thiện quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ trong bối cảnh thâm hụt thương mại hiện nay nghiêng về Việt Nam quá lớn. Cho nên, mua sắm thêm vũ khí cũng là cách để Việt Nam gửi thông điệp rằng “chúng tôi muốn mở rộng hơn nữa hợp tác, đặc biệt là về thương mại”. Và trao đổi thương mại quốc phòng là một điểm mà Việt Nam đã và đang cân nhắc.

    RFI : Việc Nga, nước cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam, bị cấm vận và phải dồn toàn bộ nguồn lực quốc phòng cho chiến tranh ở Ukraina buộc Hà Nội phải tăng tốc đa dạng hóa nguồn cung, trong số này có vũ khí hệ phương Tây. Tuy nhiên, những nước này có cơ chế kiểm soát chặt chẽ vũ khí được bán. Vấn đề này sẽ tác động đến quá trình hợp tác với Việt Nam như thế nào ? Yếu tố “hoa hồng”, vẫn được các chuyên gia, nhà quan sát về quân sự Việt Nam nêu lên, có phải là một trở ngại khác ?

    Nguyễn Thế Phương : Có hai yếu tố gây trở ngại chính. Thứ nhất là yếu tố mang tính hệ thống vì toàn bộ chu trình ra quyết định mua vũ khí nào và quy trình huấn luyện, bảo dưỡng bảo trì thì từ trước đến này, hệ thống, cấu trúc của Việt Nam luôn hướng về phía Nga. Cho nên hiện giờ, muốn đổi sang một hệ phương Tây khác thì toàn bộ quy trình đó phải được điều chỉnh và thay đổi. Và quá trình này tốn rất nhiều thời gian.

    Thứ hai là vấn đề mang tính chính trị bởi vì tư duy quốc phòng, an ninh của Việt Nam hiện tại vẫn có một yếu tố nghi ngại phương Tây nói chung và Mỹ nói riêng, cũng như các đồng minh của Mỹ. Đây là điểm có khả năng làm chậm lại quá trình tương tác giữa Việt Nam và các quốc gia phương Tây, đặc biệt là liên quan đến mua sắm vũ khí quốc phòng.

    Đọc thêm : Nga hụt hơi xích gần với Trung Quốc buộc Việt Nam cân nhắc nâng cấp quan hệ với Mỹ ?

    Điểm thứ ba, rất cốt lõi, liên quan đến tài chính. Nguồn lực của Việt Nam hiện nay, đặc biệt là tài chính trong quá trình hiện đại hóa, rõ ràng là không lớn cho nên cũng phải “liệu cơm gắp mắm”. Tất cả những yếu tố đó, khi Việt Nam muốn xác định mua sắm, đều phải đặt lên bàn cân để xem mua của ai, được lợi gì và bất lợi gì, đặc biệt là với Mỹ. Như chị đề cập tới quy trình và đặc trưng của quy trình mua sắm vũ khí, khí tài, thì “văn hóa” giữa hai bên Mỹ-Việt Nam và Việt Nam với phương Tây là khác nhau. Thực ra, sự khác nhau này là có thể điều chỉnh được.

    Nhưng như tôi đã đề cập, quá trình điều chỉnh văn hóa mua sắm và chính sách như này cần phải có nhiều thời gian và dựa trên niềm tin chính trị giữa hai bên, nhu cầu của Việt Nam và chính sách, cũng như chiến lược quốc phòng của Việt Nam hiện tại, chứ không hẳn là vũ khí phương Tây là tốt và cũng không hẳn là ở thời điểm hiện tại, Nga đang gặp khó khăn và Việt Nam không mua của Nga.

    RFI : Phát biểu tại một sự kiện của Canergie, đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius từ năm 2014-2017 cho rằng các nhà lãnh đạo Việt Nam “thực tế”, “có rất nhiều điều có thể thực hiện một cách thực dụng giúp tăng cường quan hệ đối tác” Việt-Mỹ, kể cả trong lĩnh vực an ninh, dù không cần liên minh hay căn cứ. Hai nước sẽ tính đến những hướng phát triển nào ? Liệu Washington cần tiếp tục kiên trì vì Hà Nội cần thời gian nếu nhìn vào sự cân bằng với Trung Quốc ?

    Nguyễn Thế Phương : Trong chính sách đối ngoại và chiến lược của Mỹ ở châu Á-Thái Bình Dương, Việt Nam dù sao cũng đóng một vai trò tương đối quan trọng trong tầm nhìn của Mỹ ở khu vực. Cho nên Mỹ sẽ cần phải có một mức độ kiên trì nhất định khi tương tác với các lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là các lãnh đạo bên quân đội.

    Đọc thêm : Thêm Việt Nam, Mỹ mở rộng mạng lưới đối trọng với Trung Quốc ở Biển Đông

    Đối với Việt Nam, niềm tin chiến lược hiện tại giữa hai bên đã được cải thiện, nhưng không đi quá nhanh. Nhìn vào Sách Trắng Quốc phòng của Việt Nam, vấn đề mang tính diễn biến hòa bình, những vấn đề mang tính lật đổ hoặc đảm bảo nguyên chế độ vẫn là vấn đề an ninh hàng đầu. Khi nói đến những vấn đề đó, phương Tây và Mỹ là những “đối tượng rất lớn”, theo đúng cách dùng của ngôn ngữ chiến lược Việt Nam. Cho nên, để có mối quan hệ song phương bền vững và lâu dài với Việt Nam, Mỹ cần có sự kiên trì nhất định khi làm việc với Việt Nam, đặc biệt là trong những vấn đề mang tính nhạy cảm như an ninh và quốc phòng.

    Ngoài ra, theo lời đại sứ Ted Osius, về vấn đề liên quan đến “thực tế”, các nhà lãnh đạo Việt Nam ở thời điểm hiện tại đã “thực tế” và “thực dụng” hơn rất nhiều so với các đây 20-30 năm, đặc biệt là trong giai đoạn trước và sau khi Liên Xô sụp đổ. Đó là giai đoạn vẫn còn nghi kị rất nhiều. Hiện tại, do sự chuyển dịch tư duy về chiến lược đặt phát triển kinh tế lên hàng đầu, để phát triển kinh tế, các nhà lãnh đạo phải “thực dụng” hơn nhưng không có nghĩa là họ không nghi ngờ, không phòng thủ trước những mối quan hệ với Mỹ và phương Tây. Phòng thủ ở đây không chỉ về mặt khác biệt và quan điểm chính trị, mà còn là sự đề phòng trong mối cân bằng ngoại giao với Trung Quốc. Đó là sự cân bằng giữa các nước lớn.

    Đọc thêm : Việt - Mỹ thắt chặt quan hệ, không để Trung Quốc "lộng hành" ở Biển Đông

    Cho nên, nói theo đại sứ Ted Osius cũng đúng, nhưng phải đặt trong toàn bộ bối cảnh tư duy chiến lược của Việt Nam hiện tại : Có sự cân bằng giữa các nước láng giềng, có yếu tố về mặt chính trị, một chút ý thức hệ và cũng có yếu tố thực dụng trong việc tăng cường quan hệ với Mỹ thì sẽ mở rộng hơn nữa khả năng của Việt Nam về mặt thương mại, tài chính và công nghệ. Đó là những lĩnh vực Việt Nam đang muốn đầu tư cho việc duy trì khả năng phát triển kinh tế trong tương lai.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn anh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.

  • Zijn er afleveringen die ontbreken?

    Klik hier om de feed te vernieuwen.

  • Ông Tô Lâm, tổng bí thư, chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, là người triển khai chiến dịch "đốt lò" của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch dữ dội dường như khiến nước láng giềng Trung Quốc lo ngại về những "biến động chính trị chưa từng có ở Việt Nam". Việc một quan chức thuộc bộ Công An, không giàu kinh nghiệm đối ngoại, nắm giữ hai chức vụ cao nhất trên thượng tầng lãnh đạo cũng khiến Bắc Kinh không khỏi bồn chồn về đường lối "ngoại giao cây tre".

    Tuy nhiên, khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc, trấn an rằng Hà Nội "luôn coi trọng và ưu tiên" quan hệ với Bắc Kinh.

    Chuyến công du cấp nhà nước của ông Tô Lâm còn có ý nghĩa như nào trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước ? Trung Quốc trông đợi gì vào các nhà lãnh đạo Việt Nam ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.

    RFI : Khoảng hai tuần sau khi được bầu làm tổng bí thứ đảng Cộng Sản Việt Nam, ông Tô Lâm dành chuyến công du nước ngoài đầu tiên đến Trung Quốc. Liệu đây có phải là tín hiệu trấn an đến Bắc Kinh dù Hà Nội tăng cường mối liên hệ với Washington và nhiều nước đồng minh khác của Mỹ ?

    Laurent Gédéon : Tôi nghĩ đây quả thực là một tín hiệu tích cực gửi đến Bắc Kinh. Theo tôi, có 5 yếu tố cho thấy điều này. Thứ nhất, chuyến thăm cấp Nhà nước của ông Tô Lâm tại Trung Quốc từ ngày 18 đến 20/08/2024 nằm trong khuôn khổ tiếp nối chính sách về Trung Quốc được người tiền nhiệm Nguyễn Phú Trọng gây dựng. Ông Trọng đã công du Trung Quốc tháng 10/2022.

    Thứ hai, chuyến thăm này còn có ý nghĩa biểu tượng mạnh mẽ. Trước tiên, ông Tô Lâm là nhà lãnh đạo đầu tiên của Việt Nam, từ thời Hồ Chí Minh, đến Trung Quốc với tư cách vừa là chủ tịch nước vừa là tổng bí thư đảng Cộng Sản Việt Nam. Tiếp theo, lễ đón tiếp long trọng ông Tô Lâm đã cho thấy chính quyền Trung Quốc coi trọng sự kiện này như thế nào (21 phát đại bác được bắn để chào mừng ông Lâm, đích thân ngoại trưởng Vương Nghị đón ông ở sân bay). Cuối cùng, năm 2024-2025 mang đầy ý nghĩa biểu tượng mạnh vì năm 2024 kỷ niệm tròn 100 năm chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm Quảng Đông và năm 2025 sẽ đánh dấu 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như kỷ niệm 95 năm ngày thành lập đảng Cộng Sản Việt Nam.

    Thứ ba, phải nhắc đến những phát biểu mạnh mẽ từ cả hai phía nhấn mạnh đến quan hệ mật thiết Việt-Trung. Chủ tịch Tập Cận Bình nhắc đến sự hình thành một “cộng đồng chung vận mệnh có tầm quan trọng chiến lược giữa Trung Quốc và việt Nam” và nói thêm rằng Bắc Kinh “luôn coi Việt Nam là hướng ưu tiên trong ngoại giao láng giềng”. Còn ông Tô Lâm trấn an người đồng cấp Trung Quốc rằng đảng và đất nước Việt Nam “luôn coi sự phát triển mối quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên tuyệt đối trong chính sách đối ngoại”.

    Đọc thêm : Tổng bí thư Việt Nam Tô Lâm đi Trung Quốc, chuyến công du nước ngoài đầu tiên từ khi nhậm chức

    Thứ tư là có mối quan hệ chặt chẽ về ý thức hệ giữa hai chế độ. Điểm này được xác nhận trong tuyên bố chung ngày 20/08 nhấn mạnh rằng “hai nước cam kết tăng cường trao đổi thông tin và chia sẻ kinh nghiệm về mặt chống can thiệp, chống ly khai, phòng chống “cách mạng màu”, cùng bảo vệ an ninh chính trị và an toàn cho chế độ (…)”. Cũng như “hai bên đề cao trao đổi và hợp tác trong lĩnh vực nhân quyền dựa trên công bằng và tôn trọng lẫn nhau, phản đối mạnh mẽ “chính trị hóa”, “công cụ hóa” và tiêu chuẩn kép trong vấn đề nhân quyền, đồng thời kiên quyết phản đối việc lợi dụng vấn đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác”.

    Thứ năm là có sự hòa hoãn tương đối ở cấp độ quân sự. Tuyên bố chung nhấn mạnh : “Hai bên khẳng định hợp tác quốc phòng - an ninh là một trong những trụ cột của quan hệ Việt-Trung ; nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh ; tăng cường giao lưu các cấp giữa quân đội hai nước ; làm sâu sắc giao lưu biên phòng, hải quân, cảnh sát biển”.

    RFI : Nhìn rộng hơn, những yếu tố tích cực đó diễn ra trong bối cảnh như thế nào ?

    Laurent Gédéon : Khía cạnh tích cực đó diễn ra trong bối cảnh chung, được đánh dấu bởi ba hạn chế quan trọng đối với Việt Nam.

    Hạn chế thứ nhất là kinh tế. Nổi bật trong tình hình hiện nay là sự phụ thuộc ngày càng lớn từ một thập niên qua của nền kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc. Đa số các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đến từ Trung Quốc bởi vì các doanh nghiệp Trung Quốc chuyển dịch sản xuất để tránh thuế quan của Mỹ. Khối lượng nhập khẩu có nguồn gốc Trung Quốc đã tăng từ gần 30 tỉ đô la vào năm 2013 lên thành 110 tỉ đô la vào năm 2023 trong khi xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc tăng từ 15 tỉ lên thành 60 tỉ trong cùng thời điểm.

    Yếu tố thứ hai là những bất trắc liên quan đến Hoa Kỳ. Trước những bất trắc về cuộc bầu cử tổng thống Mỹ sắp tới, Hà Nội phải cân nhắc cách hợp tác về kinh tế và quân sự với Donald Trump hoặc Kamala Harris năm 2025. Thêm vào đó là việc xích lại gần với Mỹ luôn được đặt trong điều kiện cơ bản của Việt Nam là bảo toàn chế độ cộng sản. Đây là một điểm khiến Hà Nội xích lại gần Bắc Kinh. Tuy nhiên một bộ phận trong giới chính trị Mỹ lại rất nhạy cảm về những vấn đề liên quan đến nhân quyền, các quyền tự do cá nhân, cho nên tỏ ra nghi ngờ về chính sách tăng cường hợp tác an ninh đang được triển khai với Việt Nam. Sự ngờ vực tiềm ẩn này cản trở sự xích lại gần nhau giữa hai nước.

    Yếu tố thứ ba là sự bó buộc về địa lý. Có chung 1.400 km đường biên giới trên bộ với Trung Quốc, Việt Nam phải tính đến sự gần gũi về mặt địa lý này và điều này cũng tiềm ẩn việc Trung Quốc luôn có khả năng gây áp lực đối với Việt Nam.

    Đọc thêm : Tô Lâm, tân lãnh đạo cứng rắn của Việt Nam thiên về tư bảnRFI : Ngoài ra, liệu chuyến thăm cũng là cách để trấn an Bắc Kinh về sự ổn định chính trị sau khi đảng Cộng Sản Việt Nam có lãnh đạo mới và hàng loạt xáo trộn trong chính phủ do chiến dịch chống tham nhũng ?

    Laurent Gédéon : Đây là một giả thuyết không thể loại trừ. Bắc Kinh bận tâm rõ ràng đến việc Việt Nam và Mỹ sưởi ấm mối quan hệ, cũng như cuộc chống tham được tiến hành dưới thời tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chiến dịch này đã khiến 7 thành viên trên tổng số 18 ủy viên Bộ Chính Trị năm 2021 bị khai trừ và hai người tiền nhiệm của chủ tịch nước Tô Lâm bị cách chức, đó là ông Nguyễn Xuân Phúc và Võ Văn Thưởng.

    Chiến dịch chống tham nhũng này cũng gây ra nhiều quan ngại về khả năng một cuộc khủng hoảng kế thừa quyền lực, cũng như gia tăng bất ổn thường trực. Trung Quốc dè chừng một nước Việt Nam bất ổn ngay sát biên giới sẽ có thể trở thành cửa ngõ cho các thế lực có khả năng thù nghịch với Bắc Kinh.

    Tình hình hiện này dường như đã được ổn định. Hiện giờ Bộ Chính Trị có 16 thành viên, trong đó có 5 người đến từ bộ Công An và 3 người thuộc Quân Đội. Sự phân chia này cho thấy rõ là trọng tâm giờ đây được tập trung vào việc kiểm soát xã hội và an ninh. Thông qua đó cũng có thể thấy một thông điệp nhằm trấn an các đối tác về sự ổn định chính trị trong tương lai của đất nước.

    Tuy nhiên, dù chiến dịch chống tham nhũng có vẻ đã đạt được mục đích là củng cố quyền lực của ông Tô Lâm nhưng vẫn phải tính đến khả năng các bên đối lập trong nội bộ đảng hợp lực lại để phản đối việc xác nhận ông Lâm làm người kế nhiệm ông Trọng trong đại hội đảng Cộng Sản lần thứ 14 sẽ diễn ra vào năm 2026. Do đó, giai đoạn tiếp theo này chắc chắn sẽ được Bắc Kinh đặc biệt chú ý.

    Đọc thêm : Việt Nam : Quyền lực cá nhân tân tổng bí thư không làm thay đổi “ngoại giao cây tre”

    RFI : Trung Quốc trông đợi những gì vào các nhà lãnh đạo mới của Việt Nam ?

    Laurent Gédéon : Tôi nghĩ trước tiên phải nói một chút về tổng quan tình hình địa-chính trị chung của Trung Quốc bối cảnh chính trị tế nhị trên thế giới hiện nay. Bắc Kinh chọn xích lại gần với một loạt quốc gia, kể cả Nga. Mục đích là để lật lại trật tự thế giới có từ thời Thế Chiến II mà họ coi là do phương Tây chiếm lĩnh. Hơn nữa, ý định xem xét lại trật tự vốn có đó đã được Bắc Kinh tái khẳng định nhiều lần, như trong chuyến thăm chính thức Trunng Quốc của tổng thống Nga Vladimir Putin vào tháng 05/2024.

    Lập trường này của Trung Quốc lại vấp phải sức ép ngày càng lớn từ Hoa Kỳ và các nước đồng minh ở châu Á, trong đó có Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Philippines. Thêm vào đó phải kể đến tranh luận hiện tại về việc mở rộng khối NATO sang Đông Á và vùng Thái Bình Dương. Điều này cho thấy sự thay đổi về tầm nhìn chiến lược của Mỹ dường như ngày càng coi Trung Quốc và Nga là một khối đồng nhất và cần phải có cách đáp trả toàn diện.

    Trên thực địa, sức ép của Mỹ ngày càng gia tăng từ nhiều tháng qua, thông qua các cuộc tập trận chung Mỹ-Hàn Quốc-Nhật Bản, một chính sách mang tính chủ động hơn của Philippines hoặc sự ủng hộ ngày càng rõ ràng của Washington đối với Đài Loan. Trong bối cảnh đó, điều quan trọng đối với các nhà lãnh đạo Trung Quốc là không muốn thấy bùng thêm một điểm căng thẳng mới có thể tạo điều kiện cho Mỹ can thiệp vào khu vực.

    Chính vì thế Bắc Kinh coi trọng việc củng cố quan hệ chính trị và chiến lược với Hà Nội, phát triển mối liên hệ hài hòa với nước láng giềng. Trông đợi này của Trung Quốc dường như gặp được phản hồi tích cực từ Hà Nội thông qua hàng loạt cử chỉ thiện chí. Đối với Trung Quốc, việc Việt Nam duy trì chính sách cân bằng ngoại giao giữa các cường quốc chắc chắn là giải pháp tốt nhất. Và đây là việc mà Việt Nam tiến hành vì là nước duy nhất đón nguyên thủ của cả ba cường quốc quân sự Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nga chỉ trong một năm.

    Đọc thêm : Biển Đông : Việt Nam - Trung Quốc cam kết giải quyết tranh chấp thông qua “hiệp thương hữu nghị”

    Ngoài ra, chính sách "Bốn Không" được nêu rõ trong Sách trắng Quốc phòng 2019 (không tham gia liên minh quân sự ; không liên kết với nước này để chống nước kia ; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác ; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) đảm bảo chắc chắn với Trung Quốc rằng Việt Nam sẽ không phải là bên tham gia vào một cuộc xung đột, ví dụ có thể là giữa Trung Quốc và Philippines hoặc thậm chí là giữa Trung Quốc và Nhật Bản hay Trung Quốc và Mỹ.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên trường Sư phạm Lyon (École normale supérieure de Lyon), Pháp.

  • Với nguồn tài nguyên biển phong phú cùng điều kiện nắng và gió thuận lợi, Việt Nam có tiềm năng trở thành trung tâm sản xuất hydrogen xanh hàng đầu ở châu Á, qua đó giảm bớt sự phụ thuộc vào các nhiên liệu hóa thạch. Nhưng để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam cần đến sự trợ giúp của các nước phát triển, trong đó có Pháp.

    Hydrogen xanh là một loại hydrogen được sản xuất từ các nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời và gió. Khác với hydro "xám", quá trình sản xuất hydro xanh sử dụng điện năng để điện phân nước, tách nước thành hydro xanh và oxygen, không phát thải CO2 và các chất ô nhiễm khác. Các lợi ích về môi trường và tính linh hoạt của nó trong các lĩnh vực như giao thông vận tải, công nghiệp và sản xuất điện khiến hydro xanh ngày càng trở nên quan trọng khi các quốc gia nỗ lực đạt được mục tiêu trung hòa cacbon, như mục tiêu mà Việt Nam đã cam kết cho năm 2050

    Trả lời RFI Việt ngữ từ Jakarta ngày 26/08/2024, ông Mathieu Geze, giám đốc đặc trách khu vực châu Á của công ty Hydrogène de France ( HDF Energy ), một trong những công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen, nhận định về tiềm năng phát triển hydrogen xanh của Việt Nam:

    “Hydrogen có thể được sản xuất từ những nguồn năng lượng tái tạo, như năng lượng Mặt trời hoặc gió. Việt Nam có những tiềm năng rất lớn về hai loại năng lượng này, nên cũng có tiềm năng lớn về hydrogen xanh, mà công ty HDF Energy của chúng tôi cố gắng giúp khai thác.

    Nói chung, tiềm năng về hydrogen là rất lớn trong lĩnh vực hóa dầu, cụ thể là tập đoàn Petrovietnam với một số nhà máy lọc dầu của công ty này, hay các nhà máy dùng hydrogen để sản xuất một số sản phẩm như phân bón.

    Hiện nay, hydrogen xám chủ yếu được sản xuất từ khí đốt. Nhưng trong tương lai, nhờ tiềm năng về năng lượng tái tạo, ta có thể sản xuất hydrogen xanh để phi cacbon hóa những ngành như ngành hóa dầu, hay ngành giao thông, như xe lửa. Chẳng hạn như Công ty Đường sắt Việt Nam hiện nay chủ yếu sử dụng các đầu máy chạy bằng diesel. Hydrogen có thể đóng một vai trò trong việc kéo dài tuổi thọ của một số đầu máy, đồng thời góp phần phi cacbon hóa ngành này.

    Về phần công ty HDF Energy, trong giai đoạn đầu, chúng tôi cố gắng giúp phi cacbon hóa ngành điện. Việt Nam có những vùng xa xôi hẻo lánh, chẳng hạn như các đảo thuộc tỉnh Kiên Giang, nơi mà hydrogen có thể được dùng để tích trữ một cách ổn định các nguồn năng lượng tái tạo. Cụ thể, nguồn điện từ năng lượng Mặt trời hay năng lượng gió có thể không ổn định, vì nắng lúc có lúc không, gió thì lúc mạnh lúc yếu. Hydrogen có thể được sử dụng để tích trữ lượng điện đó và cung cấp cho mạng lưới điện những khi thiếu nắng và gió.”

    Với những tiềm năng lớn về năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện gió ngoài khơi và năng lượng Mặt Trời, Việt Nam đã phê duyệt chiến lược quốc gia phát triển hydrogen xanh đến năm 2050. Mục tiêu cụ thể là sản xuất từ 100.000 đến 500.000 tấn hydrogen xanh từ đây đến năm 2030, để sau đó đạt được sản lượng từ 10 đến 20 triệu tấn từ đây đến năm 2050.

    Chính phủ Việt Nam hiện đang tìm các nhà đầu tư ngoại quốc có thể hỗ trợ tài chính cho việc sản xuất hydrogen xanh qua nhiều nguồn năng lượng khác nhau, không chỉ có năng lượng gió, năng lượng Mặt trời, mà cả than đá, dầu hỏa và khí đốt. Theo dự báo của chính phủ Hà Nội, hydrogen xanh sẽ đáp ứng 10% nhu cầu tiêu thụ năng lượng của Việt Nam từ đây đến năm 2050. Ông Mathieu Geze, giám đốc châu Á của HDF Energy nhận định về mục tiêu này:

    “Tôi nghĩ là có thể đạt được mục tiêu đó, vấn đề chủ yếu chỉ là thời gian. Nhưng do có tiềm năng rất lớn về điện Mặt trời và điện gió, do nhu cầu phải phi cacbon hóa đất nước, do phải đáp ứng nhu cầu điện năng ngày càng tăng cùng với đà phát triển của kinh tế, công nghiệp, hydrogen có thể góp phần đáp ứng nhu cầu đó. Tỷ lệ 10% theo tôi là một mục tiêu khả thi”.

    Pháp là một trong những quốc gia hàng đầu thế giới trong lĩnh vực hydrogen xanh tính theo số lượng sáng chế, nghiên cứu, phát triển, sản xuất trang thiết bị và doanh nghiệp ở mọi quy mô. Công ty Pháp HDF Energy đã hợp tác với Việt Nam từ vài năm nay trở lại đây. Mới đây, công ty này đã đưa vào hoạt động một nhà máy sản xuất pin nhiên liệu ( fuel cell ) tại vùng ngoại ô thành phố Bordeaux.

    Giám đốc châu Á của HDF Energy Mathieu Geze nêu bật những khả năng hợp tác giữa Pháp với Việt Nam về hydrogen xanh:

    “Nói chung, nước Pháp có những công ty hàng đầu trong lĩnh vực năng lượng, như Tập đoàn Điện lực Pháp EDF, nếu tôi không lầm thì đã có mặt ở Việt Nam từ nhiều năm qua, hoặc là những công ty khác cũng có thể có tham vọng đầu tư vào Việt Nam. Như vậy nước Pháp có thể đóng vai trò quan trọng với khả năng đầu tư, kỹ thuật, để hỗ trợ Việt Nam, đặc biệt là về thủy điện hay về điện hạt nhân.

    Riêng công ty HDF sẽ tập trung vào những dự án mà chúng tôi có thể chuyển giao các kỹ năng quan trọng cho phía Việt Nam, khác với những đối thủ cạnh tranh, đặc biệt là tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, hay một số đảo, nơi mà một phần của hệ thống điện phụ thuộc nhiều vào các máy phát điện chạy bằng diesel”.

    Có mặt tại Việt Nam từ năm 2022, HDF Energy đã triển khai nhiều dự án hợp tác với các Bộ Công Thương, Bộ Giao Thông Vận Tải, Tập đoàn Đường sắt và Tập đoàn Điện lực Quốc gia. Công ty cũng có ký kết, làm việc, hoặc trao đổi phát triển các dự án ở nhiều tỉnh thành như Kiên Giang, Bình Thuận, Ninh Thuận, là những địa phương có tiềm năng lớn trong phát triển năng lượng tái tạo như điện gió ngoài khơi, điện gió trên đất liền, hay điện Mặt trời.

    Đây cũng chính là những nguồn năng lượng tái tạo để sản xuất hydrogen "xanh" phục vụ ngành giao thông vận tải. Đặc biệt, HDF Energy đã làm việc với Công ty Đường sắt Việt Nam để nghiên cứu cơ hội chuyển đổi gần 200 động cơ diesel cũ đã vận hành từ cách đây hàng chục năm, chuyển sang sử dụng hydrogen. Về dự án này, ông Mathieu Geze cho biết:

    “Nói chung chúng tôi có tham vọng hỗ trợ ngành đường sắt để thúc đẩy quá trình chuyển đổi năng lượng của ngành này tại Pháp và tại nhiều nước khác, trong đó có Việt Nam. Chúng tôi thấy nhiều đầu máy xe lửa còn phụ thuộc vào động cơ diesel, vì cần phải đầu tư rất nhiều cho việc điện hóa các tuyến xe lửa. Một số tuyến có nhu cầu rất hạn chế hoặc rất khó lấy lại vốn khi đầu tư vào. Hydrogen sẽ là một giải pháp đơn giản để phi cacbon hóa các đầu máy đó bằng cách, nói theo tiếng Anh, retrofit chúng, thay thế động cơ diesel bằng động cơ chạy điện. Vì lý do bảo mật, tôi không thể nói chi tiết hơn, nhưng chúng tôi đang nghiên cứu các dữ liệu để xác nhận tiềm năng đó tại một số nơi ở Việt Nam.”

    Đối với ông Mathieu Geze, khuôn khổ pháp lý của Việt Nam hiện nay đã đủ thuận lợi cho việc phát triển hydrogen xanh:

    “Đây vẫn là những vấn đề rất phức tạp ở tất cả các nước mà các nhà công nghiệp, các nhà đầu tư vẫn trông chờ một sự yểm trợ về mặt chính trị, thể hiện qua một khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho các dự án.

    Cá nhân tôi thì nghĩ rằng dù trong khuôn khổ pháp lý như thế nào, các nhà phát triển dự án, các nhà đầu tư, các nhà công nghiệp cũng nên tỏ ra thực dụng. Nếu dự án được xem là đáng giá về mặt kinh tế, về mặt kỹ thuật, tôi có thể chắc chắn là dự án đó sẽ được sự hỗ trợ của chính quyền, dù ở cấp quốc gia, với bộ Công Thương hay ở cấp địa phương với chính quyền các tỉnh.

    Tôi nghĩ là các quy định luật lệ hiện nay ở Việt Nam đủ để chúng tôi có thể đề xuất các ý tưởng, các dự án và thực hiện các ý tưởng, dự án đó. Nếu trong tương lai các nhà lập pháp hỗ trợ mạnh hơn đối với các năng lượng tái tạo thì càng tốt”.

  • Việt Nam có trữ lượng khoảng 22 triệu tấn đất hiếm và chiếm 18% tổng lượng thế giới nhưng trong suốt nhiều năm lại không khai thác, xuất khẩu tương xứng với tiềm năng. Trước nhu cầu ngày càng tăng và chủ trương giảm phụ thuộc vào nguồn cung Trung Quốc của nhiều nước, đất hiếm ở Việt Nam ngày càng được quan tâm.

    Tháng 06/2024, chính phủ tuyên bố « nhất quyết không xuất khẩu đất hiếm thô ». Tuy nhiên, sẽ mất bao lâu để thực hiện được ý định này trong khi các nhà đầu tư vào Việt Nam lại không làm chủ được công nghệ tinh luyện mà trung Quốc nắm giữ ?

    Trên đây là nhận định của phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS, khi trả lời phỏng vấn của RFI Tiếng Việt, ngày 10/07/2024. Đồng thời, chuyên gia Mottet còn nhấn mạnh đến chiến dịch chống tham nhũng, được coi là yếu tố thứ hai có thể tác động đến lĩnh vực khai thác đất hiếm ở Việt Nam. Sự kiện mới nhất là ông Nguyễn Linh Ngọc, nguyên thứ trưởng bộ Tài Nguyên Môi Trường bị khởi tố ngày 22/07/2024 liên quan đến Công ty cổ phần Tập đoàn Thái Dương, gây thát thoát khoáng sản của Nhà nước với trị giá ước tính trên 600 tỷ đồng.

    RFI : Theo báo cáo năm 2022 của Viện Geological Survey của Mỹ, tổng khối lượng đất hiếm của Việt Nam chiếm khoảng 18% tổng lượng trên thế giới, kể cả đất hiếm nặng và nhẹ. Có thể tìm thấy đất hiếm tại những vùng nào ở Việt Nam ?

    Éric Mottet : Tại Việt Nam, đất hiếm nằm ở nhiều nơi. Trước tiên là ở phía tây bắc, nơi có một trong những mỏ đất hiếm lớn nhất Việt Nam, cho đến giờ vẫn gần như chưa được khai thác. Đất hiếm còn nằm ở vùng cao nguyên miền trung và dọc bờ biển, gần như từ bắc xuống nam. Ở Việt Nam, cũng như nhiều nước khác trên thế giới, đất hiếm vốn rất dồi dào, dễ khai thác. Nhưng sự khác biệt, hoặc nói một cách khác là vấn đề duy nhất nằm ở công nghệ để tinh luyện chúng.

    Như câu hỏi đã nêu, đất hiếm ở Việt Nam chiếm khoảng 18% trữ lượng thế giới. Đó là con số rất lớn, được coi là nguồn trữ lượng đất hiếm lớn thứ hai trên thế giới, chỉ sau Trung Quốc, với giá trị được thẩm định gần 3.000 tỉ đô la Mỹ. Con số này lớn gần gấp 10 lần GDP Việt Nam. Nhưng hiện giờ, những mỏ đất hiếm này hầu hết chưa được khai thác. Việt Nam là một nhà sản xuất đất hiếm nhưng theo tôi, chỉ là một nhà sản xuất vô cùng nhỏ, vì mới chỉ khai thác được khoảng 600 tấn/năm. Năng suất này thấp hơn rất nhiều lần so với Trung Quốc, thậm chí thấp hơn cả Miến Điện, nước khai thác 38.000 tấn hàng năm.

    Dù sao, đất hiếm ở Việt Nam có tiềm năng đáng kể mà rất nhiều nước phương Tây đang nhìn với con mắt ghen tị.

    RFI : Ngay năm 2014, một số giấy phép khai thác đất hiếm đầu tiên đã được cấp nhưng dường như hoạt động khai thác không được tiến triển. Những nguyên nhân, yếu tố nào có thể giải thích cho tình trạng này?

    Éric Mottet : Có nhiều lý do. Chúng ta đừng quên là đất hiếm, nhất là ở tây bắc Việt Nam, đã được hai công ty Nhật Bản khai thác cho đến năm 2015. Nhưng việc Trung Quốc có quá nhiều đất hiếm, khiến giá sụt thê thảm nên việc khai thác ở Việt Nam không đem lại lợi nhuận và buộc các công ty Nhật Bản rút khỏi dự án từ những năm 2014, 2015. Liên quan đến Việt Nam, các nhà đầu tư bị nản lòng vì giá thấp và thế gần như độc quyền của Trung Quốc trên thị trường đất hiếm. Đối với nhiều nhà đầu tư, việc khai thác đất hiếm bị coi là mang lại ít lợi nhuận. Đó là lý do thứ nhất khiến đất hiếm rất ít được khai thác ở Việt Nam.

    Tuy nhiên, từ năm 2023, thủ tướng Việt Nam đã công bố một quyết định thông qua kế hoạch thăm dò, tiếp theo là khai thác đất hiếm ở quy mô lớn. Chính phủ có ý định mời thầu vào cuối năm 2023, đầu năm 2024, nói theo cách khác là để “bán” nhiều lô trong mỏ Đông Pao ở vùng núi tây bắc. Theo lịch trình là tái khởi động vào cuối năm 2024 với dự kiến khai thác 10.000 tấn đất hiếm mỗi năm. Một số doanh nghiệp nước ngoài đã đặt sẵn bản doanh, ví dụ tập đoàn Úc Blackstone, hoặc nhiều hợp tác đang được thảo luận ít nhiều với Hàn Quốc.

    Nhưng mọi chuyện dần bị dừng lại vào tháng 10, 11/2023 bởi vì chiến dịch chống tham nhũng trong các doanh nghiệp Việt Nam đã gây ra nhiều thiệt hại, kể cả trong hàng ngũ lãnh đạo cấp cao của ngành công nghiệp mỏ khoáng sản, cũng như trong các công ty đang khai thác đất hiếm. Các vụ bắt giữ đã cản trở phần lớn những dự án của chính phủ, xin nhắc lại ở đây, là nhằm bán đấu giá những khu nhượng quyền khai thác mới cho những công ty Việt Nam hợp tác với các doanh nghiệp Úc và Hàn Quốc. Vì thế tôi cho rằng ngành công nghiệp này hiện giờ có phần bất trắc. Các nhà đầu tư nước ngoài lưỡng lự đầu tư vào khai thác đất hiếm ở Việt Nam.

    Tuy nhiên, chính phủ Việt Nam vẫn giữ kế hoạch chỉ đạo, muốn tiếp tục và muốn khoảng 2 triệu tấn đất hiếm được khai thác vào khoảng năm 2030. Nhưng tôi xin nhắc lại là vì hai lý do chính - chi phí khai thác thấp ở Trung Quốc và chiến dịch chống tham nhũng cùng với những vụ bắt giữ các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khai thác, quản lý ngành công nghiệp mỏ và khoáng sản ở Việt Nam - cho nên những dự án được thông báo năm 2023 hiện giờ (năm 2024) đã bị đình chỉ.

    Rất khó để biết được lý do chính xác khiến nhiều cán bộ hoặc lãnh đạo cấp cao của công ty quốc doanh, bán quốc doanh, tư nhân ở Việt Nam bị bắt vì tham nhũng. Tuy nhiên, có một vài thông tin được tiết lộ về một doanh nghiệp và các vụ biển thủ công quỹ của họ.

    Thứ hai, Việt Nam có nhiều quy định hiện hành, khá là chặt chẽ về xuất khẩu khoáng sản thô ra nước ngoài. Và một trong hai doanh nghiệp quản lý đất hiếm dường như đã xuất khẩu bất hợp pháp sang Trung Quốc để tinh chế đất hiếm ở đó. Tại sao doanh nghiệp đó lại làm như vậy ? Đó là vì họ cho rằng chi phí thì cao, còn khả năng tinh chế ở Việt Nam còn quá yếu nên họ phải chuyển hướng sang Trung Quốc và người phụ trách đó đã bị bắt. Cho nên có thể thấy có hai lý do : biển thủ công quỹ và xuất khẩu đất hiếm trái phép ra nước ngoài, nhất là sang Trung Quốc.

    RFI : Chính phủ Việt Nam khẳng định không xuất khẩu đất hiếm dạng thô. Việt Nam sẽ phải cải thiện những gì và cần hỗ trợ như thế nào để đạt được mục tiêu này ?

    Éric Mottet : Quy định hiện hành của Việt Nam về xuất khẩu khoáng sản thô đã được thắt chặt hơn rất nhiều bởi vì Hà Nội đặt mục tiêu triển khai lĩnh vực tinh chế ở trong nước. Nhưng Việt Nam lại phải đối phó với rất nhiều thách thức lớn về năng lực, công nghệ, kỹ thuật tinh chế. Việt Nam muốn hình thành một dây chuyền khép kín từ khai thác đến tinh luyện đất hiếm nhưng vấn đề đầu tiên của Viện Nam hiện giờ là phải phát triển được năng lực tinh chế khoáng sản. Đó lại là cả một quá trình phải làm trong hợp tác với các doanh nghiệp Úc, Hàn Quốc.

    Dù sao cũng có một tin vui, đó là chuyến công du Việt Nam năm 2023 của tổng thống Mỹ Joe Biden. Hà Nội và Washington đã ký một thỏa thuận nhằm tăng cường năng lực của Việt Nam, nhất là về thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực khai thác đất hiếm. Nhưng Hoa Kỳ cũng không phải là một nước làm chủ được công nghệ tinh chế đất hiếm, bởi vì phần lớn khối lượng đất hiếm được khai thác ở Mỹ, nhất là ở bang California, cũng lại được chuyển sang Trung Quốc để tinh chế.

    Vấn đề hiện nay đối với Việt Nam là họ muốn phát triển một lĩnh vực với các đối tác phương Tây, như Úc, Mỹ hoặc ở trong khu vực như Hàn Quốc, nhưng những nước này cũng không làm chủ hoàn toàn được công nghệ tinh chế hoặc tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp. Cho nên có thể thấy là Việt Nam phần nào bị bí. Họ muốn phát triển khả năng tinh luyện đất hiếm nhưng lại không dựa vào đúng đối tượng.

    Bắc Kinh hiểu rõ vấn đề của Việt Nam và đánh tiếng với chính phủ Việt Nam rằng quốc gia tinh chế được đất hiếm với chi phí thấp chỉ có Trung Quốc và nếu Việt Nam muốn phát triển lĩnh vực này thì phải hướng sang Trung Quốc. Nhưng đây là điều mà hiện giờ chính phủ Việt Nam chưa tính đến.

    RFI : Như ông vừa nêu, nhiều công ty nước ngoài đã quan tâm đến việc khai thác đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ vẫn chỉ ở giai đoạn thăm dò, nghiên cứu. Liệu có thể hy vọng là sẽ có nhiều tiến triển trong thời gian tới ? Những yếu tố nào có thể tác động đến những tiến bộ đó ?

    Éric Mottet : Người ta từng nghĩ rằng mọi chuyện sẽ tiến triển trong năm 2023, 2024. Vì những lý do mà tôi đã nêu ở trên, nhất là chiến dịch chống tham nhũng trong các ngành công nghiệp và lĩnh vực khai thác mỏ ở Việt Nam, nên mọi chuyện bị chậm lại.

    Tuy nhiên, có một yếu tố có thể thúc đẩy tình hình, đó là Hoa Kỳ muốn hỗ trợ Việt Nam phát triển lĩnh vực đất hiếm này. Mỹ đã đề xuất, đã ghi trong khuôn khổ một thỏa thuận là giúp Việt Nam lập bản đồ các nguồn trữ đất hiếm vì thường thì việc này sẽ cho phép thu hút các nhà đầu tư chất lượng vào Việt Nam. Mỹ muốn giúp Việt Nam phát triển ngành công nghiệp này cũng là để giúp Mỹ giảm phụ thuộc quá mức vào Trung Quốc về đất hiếm. Phía Hoa Kỳ thực sự tỏ thiện chí giúp đỡ Việt Nam phát triển ngành này. Đây là điều có thể coi là rất tích cực và tôi nghĩ đó là một yếu tố quan trọng trong tương lai đối với ngành khai thác đất hiếm ở Việt Nam.

    Nhưng tôi cũng xin nhắc nhắc lại là Việt Nam đang dựa vào những đối tác mà hiện giờ chưa làm chủ hoàn toàn công nghệ chế biến đất hiếm. Thêm vào đó còn có một trở ngại khác. Đó là Trung Quốc, nước từng đề xuất giúp đỡ Việt Nam phát triển những công nghệ khác nhau trong các khâu khai thác, chế biến, xử lý và tinh chế đất hiếm, vào tháng 12/2023 đã quyết định ngừng xuất khẩu một phần công nghệ này ra nước ngoài để giữ phần nào độc quyền và vai trò quan trọng về lĩnh vực này.

    Hiện giờ, Việt Nam bị kẹt giữa một bên là các nước phương Tây muốn giúp Việt Nam và muốn đầu tư nhưng lại không hoàn toàn yên tâm về kế hoạch chính sách ở Việt Nam và họ cũng không hẳn làm chủ công nghệ và bên kia là Trung Quốc, nước không còn muốn xuất khẩu công nghệ của họ ra nước ngoài, trong đó có thể có Việt Nam.

    Có thể thấy là trong những năm 2023, 2024 có rất nhiều lạc quan về vấn đề đất hiếm ở Việt Nam nhưng hiện giờ, tôi cho rằng lạc quan đó đã bớt đi phần nào so với chỉ cách đây vài tháng.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn phó giáo sư Éric Mottet, Đại học Công giáo Lille, kiêm giám đốc nghiên cứu và phụ trách về phát triển tại Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp - IRIS.

  • Theo các cơ quan bảo tồn sinh vật biển, Việt Nam là một trong những quốc gia có nhiều loài san hô đa dạng nhất thế giới. Tuy nhiên, hệ sinh thái rất quan trọng này đang bị suy thoái nghiêm trọng cả về số lượng, chất lượng, do tác động từ các hoạt động của con người ( du lịch, ô nhiễm biển ), cũng như do tác động của biến đổi khí hậu. Tác động của biến đổi khí hậu đáng lo ngại hơn cả là hiện tượng tẩy trắng hàng loạt các rạn san hô.

    Vùng biển Việt Nam hiện đang tập trung khoảng 340 loài san hô trong tổng số 800 loài của thế giới, phân bố rộng rãi từ Bắc tới Nam. Rạn san hô biển tập trung với mật độ cao ở vùng biển Nha Trang, Trường Sa, Hoàng Sa, biển Hòn Mun (Khánh Hòa). Tuy nhiên, theo số liệu thống kê của Tổng cục Biển đảo Việt Nam, hiện Việt Nam chỉ còn 1% trong số 1.300km2 rạn san hô dọc bờ biển đang trong tình trạng rất tốt; 26% các rạn san hô trong điều kiện tốt; 41% các rạn san hô trung bình, còn lại 31% là các rạn san hô nghèo.

    Ðiều đáng lo ngại đó là hiện có 96% các rạn san hô trên khắp vùng biển cả nước đang hứng chịu tác động từ các hoạt động khai thác của con người, trong đó gần 75% các rạn có mức độ rủi ro cao và rất cao bởi tình trạng khai thác mang tính hủy diệt. Đi cùng với sự suy thoái của san hô là sự biến mất của nhiều loài sinh vật biển quý.

    Lê Chiến, nhà sáng lập Trung tâm Cứu hộ Sinh vật biển SASA, một tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam chuyên giải cứu các sinh vật biển và hồi sinh các rạn san hô bị hư hại tại bờ biển miền trung Việt Nam, cho biết về hiện trạng của san hô Việt Nam, đặc biệt là hiện tượng tẩy trắng hàng loạt ( mass bleaching ):

    “Mass bleaching, tẩy trắng hàng loạt, có nghĩa là tẩy trắng trên một diện rất rộng trên một số loài, đặc biệt là loài tạo dạng quan trọng, những loài có mật độ rất lớn, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành rạn tại Việt Nam, cũng như tại châu Á-Thái Bình Dương nói chung.

    Hiện tại rất nhiều nơi ở Việt Nam, san hô đã bị tẩy trắng hàng loạt. Đấy chính là nguy cơ lớn nhất, chứ còn bây giờ vấn đề phá hoại bởi du lịch không còn là trọng tâm nữa. Hiện chúng tôi ghi nhận hiện tượng tẩy trắng hàng loạt ở một số tỉnh Nam Trung Bộ như Ninh Thuận, Bình Thuận và vịnh ở Côn Đảo, vịnh Thái Lan, Phú Quốc. Đó là ghi nhận trong khả năng của chúng tôi. Có thể có những tỉnh khác cũng bị như vậy, nhưng chúng tôi chưa có điều kiện để đi khảo sát. Rất may là ở khu vực Trung Trung Bộ và Bắc Trung Bộ thì chưa thấy bị ảnh hưởng, nhưng nhiệt độ nước biển thì hiện cũng khá là cao.”

    Cũng theo anh Lê Chiến, về mặt lý thuyết, có những phương pháp giúp đảo ngược tình trạng tẩy trắng hàng loạt san hô ở Việt Nam, nhưng trên thực tế không đơn giản chút nào:

    “Trong những phương pháp tái tạo san hô, có việc gây dựng vườn ươm con giống san hô ( coral garden ), nếu không thì chỉ là transplantation, tức là di chuyển san hô từ điểm A sang điểm B. Giống như trên hai cánh rừng, một cánh rừng trọc và một cánh rừng xanh. Nếu chúng ta lấy cây bên rừng xanh trồng bên rừng trọc thì hai bên sẽ trở lại một bên là rừng xanh, một bên là rừng trọc. Nếu không có vườn ươm thì sẽ không có con giống để cung cấp. Vườn ươm đó có nhiều yếu tố, thứ nhất là khai thác con giống. Hai là người ta có thể dùng nhiều phương pháp để khiến cho san hô stress liên tục để kích thích nó thích nghi với biến đổi khí hậu toàn cầu. Trên lý thuyết là như vậy, nhưng có rất ít nơi làm được việc đó.

    Chúng ta có thể dùng công nghệ, kỹ thuật và sức người để đảo ngược xu thế, nhưng đó là một việc rất là khó. Trong đợt tẩy trắng san hô vừa rồi, nước Úc đã gánh chịu một cảnh vô cùng thảm hại, khi hàng trăm ngàn km vuông bị tẩy trắng. Về mặt lý thuyết thì chúng ta có thể thích ứng được, nhưng thực tế rất khó mà triển khai.

    Hiện tại chúng tôi cũng đang làm một số mô hình thí điểm cứu hộ san hô bị tẩy trắng, cũng như giúp cho san hô vượt qua được mùa “heat stress”, tức là giai đoạn mà nước biển nóng lên từ 2 tuần đến 1 tháng hoặc 2 tháng. Chúng ta có thể gây dựng những vườn ươm hoặc di dời những vườn ươm. Về mặt kỹ thuật thì có thể, nhưng trên thực tế, trở ngại lớn nhất là kinh phí. Kinh phí cho việc này quá lớn, thậm chí nước Úc còn không làm được, Việt Nam lại càng khó làm.

    Trên lý thuyết, chúng ta có thể di dời toàn bộ rạn san hô đến một địa điểm khác để dưỡng chúng, qua thời điểm nước nóng lên thì chúng ta tái cấy vào khu vực đã dời đi. Nhưng để di chuyển 1 km2, 5 km2, 10 km2 hay hàng trăm km2 là rất khó. Trên thế giới hiện giờ người ta đã lập ra các vườn ươm. Nếu đó là vườn ươm với quy mô nhỏ thì có thể di dời được đến khu vực biển mát hơn hoặc di dời vào khu vực bễ nhân tạo và dùng những thiết bị, những công cụ làm mát nước, duy trì nhiệt độ nước ổn định”.

    Trước quy mô quá lớn tình trạng san hô bị suy thoái, những tổ chức phi chính phủ như SASA từ nhiều năm qua đã nỗ lực tham gia tái tạo các rạn san hô bị suy thoái, nhưng phạm vi hoạt động của họ rất giới hạn, theo lời anh Lê Chiến:

    “Công việc chính của chúng tôi vẫn là tái tạo các rạn san hô. Về kinh phí thì chúng tôi là một tổ chức nghiên cứu và hoạt động thực hành khoa học một cách độc lập, không có tư cách pháp nhân để nhận tài trợ hay hỗ trợ. Toàn bộ kinh phí là do chúng tôi tự chi trả.

    Hiện chúng tôi đang làm tại Đà Nẵng và Phú Quốc. Như tôi đã nói ở trên, rất may là miền Trung Trung Bộ, bao gồm cả Đà Nẵng, Quảng Bình…, chưa bị ảnh hưởng bởi hiện tượng tẩy trắng hàng loạt. Chúng tôi đã hoạt động ở Đà Nẵng từ 10 năm rồi, còn ở Phú Quốc thì chúng tôi mới triển khai được khoảng hơn 1 năm. Vấn đề ở đây là không phải nơi nào bị thiệt hại thì chúng tôi mới đến đó, hay là nơi nào cần thì chúng tôi đến, mà chúng tôi đi được ở đâu thì chúng tôi đi. Nơi nào cũng cần cả. Rạn san hô trên thế giới thì đang ở mức độ suy thoái từ 40 đến 60% một năm. Ở đâu chúng ta cũng đều phải làm cả!”

    Ngay cả việc phục hồi san hô bị tác động của ô nhiễm biển cũng không phải là đơn giản. Theo báo chí trong nước, 8 năm sau sự cố môi trường ảnh hưởng đến hệ sinh thái biển miền Trung Việt Nam, dự án phục hồi rạn san hô ở vùng biển này vẫn chưa được triển khai xong.

    Sự cố môi trường biển miền Trung xảy ra vào năm 2016 do Công ty Formosa Hà Tĩnh gây ra đã làm cho hệ động thực vật biển 4 tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Các rạn san hô nhiều nơi bị chết, suy thoái mạnh, cần phải được nhanh chóng tái tạo.

    Dự án phục hồi, tái tạo hệ sinh thái thủy sinh và nguồn lợi thủy sản, mặc dù theo quy định phải hoàn thành vào tháng 12/2022, nhưng nay vẫn chưa triển khai thi công. Mãi đến tháng 4/2024, tỉnh Thừa Thiên - Huế mới được thủ tướng phê duyệt cấp 170 tỉ đồng để triển khai dự án thả rạn san hô nhân tạo và trồng, phục hồi rạn san hô. Thật ra đây là lần đầu tỉnh này thực hiện dự án như vậy cho nên gặp rất nhiều khó khăn, đặc biệt là trong việc tìm ra đủ nguồn giống để trồng và phục hồi san hô.

    Do phương tiện và khả năng còn hạn chế, Việt Nam phải cần đến sự hỗ trợ của quốc tế, chẳng hạn như của Úc, quốc gia cũng đang hứng chịu thảm nạn san hô bị tẩy trắng hàng loạt. Úc vốn nổi tiếng với rạn san hô Great Barrier, hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, bao gồm khoảng 3.000 rạn san hô riêng rẽ và vịnh san hô. Do đó, các chuyên gia nước này có rất nhiều kinh nghiệm trong hoạt động bảo vệ rạn san hô trước tình trạng biến đổi khí hậu, ô nhiễm nguồn nước, đánh bắt cá quá mức.

    Theo báo chí trong nước vào tháng 04/2024, các chuyên gia Úc sẽ đào tạo, hướng dẫn cho 20 nhà khoa học và cán bộ các khu bảo tồn biển Việt Nam nâng cao năng lực, kỹ năng giám sát và quản lý rạn san hô bằng cách ứng dụng công nghệ mới ReefCloud và thiết bị ReefScan. ReefScan là một hệ thống camera dùng để nắm bắt hiện trạng rạn san hô để bảo tồn chúng một cách hiệu quả hơn. Còn ReefCloud là bộ cơ sở dữ liệu lớn dạng mở để quản lý các dữ liệu về rạn san hô.

    Không chỉ đối với Việt Nam mà đối với cả thế giới, việc phục hồi, bảo tồn ngày càng cấp thiết, do tình trạng san hô suy thoái, nhất là hiện tượng san hộ bị tẩy trắng hàng loạt, đã trở nên hết sức nghiêm trọng, sẽ ảnh hưởng đến toàn thể nhân loại, theo cảnh báo của những nhà nghiên cứu như anh Lê Chiến:

    “Trong vòng 50 năm qua, chúng ta đã đẩy những rạn san hô của chúng ta đến bờ vực suy thoái nghiêm trọng. Nhiều hệ quả có thể xảy ra. Nó chỉ mới là giả thuyết khoa học, chưa xảy ra, nhưng chúng ta có thể dùng các luận cứ khoa học, dẫn chứng khoa học để có thể đưa ra một số dự đoán.

    San hô cung cấp sự sống và dung dưỡng sự sống cho từ 25% đến 40% sinh vật từ đáy đại dương. Khi không còn san hô nữa thì 25% cho đến 40% sinh vật này có thể biến mất và điều này sẽ làm sụp đổ toàn bộ mạng lưới thức ăn dưới đáy đại dương. Về sự sụp mạng lưới thức ăn dưới đáy đại dương, lịch sử của hành tinh này đã trải qua 5 lần đại tuyệt chủng. Nó xuất phát từ nhiều lý do, nhưng một trong những hiện tượng đó là sụp đổ chuỗi thức ăn, dẫn đến đại tuyệt chủng dưới đáy đại dương.

    Đại dương của chúng ta không còn là một cái máy tạo oxy nữa, không còn là bộ phận quan trọng trong chu trình carbon của hành tinh này nữa, mà có thể nó trở thành một bể chứa tảo độc. Rạn san hô biến mất là một điều vô cùng nghiêm trọng cho cả nhân loại, chứ không chỉ vấn đề kinh tế của người này, người kia hay nước này, nước kia.

    Đại dương không chỉ là nguồn cung cấp thức ăn, mà nó còn là một cỗ máy sinh học lớn nhất trên hành tinh này để vận hành khí hậu. Nếu không có chu trình carbon dựa trên mạng lưới thức ăn vô cùng phức tạp của các đại dương, thì các đại dương sẽ trở thành một cỗ máy tạo ra CO2 và từ đấy thì nhiệt độ của bầu khí quyển sẽ tăng lên rất là nhiều, Trái đất sẽ nóng lên rất nhanh. Sau quá trình nóng lên rất nhanh như vậy là quá trình dẫn đến kỷ băng hà. Đấy là quy trình gần như là bất biến trong các kỳ đại tuyệt chủng đã từng xảy ra.”

  • Chính sách phi liên kết không phải là hoàn toàn mới nhưng được cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh trong “ngoại giao cây tre”. Một “di sản” được ông cố vun đắp từ Hội nghị Đối ngoại toàn quốc (14/12/2021) và được coi là một “trường phái đối ngoại” của Việt Nam.

    Nhà nghiên cứu Hoàng Thị Hà tại Singapore, trong một bài viết đăng ngày 24/10/2023 trên trang Fulcrum (1), nhận định “mặc dù thiếu nội dung thực chất, nhưng khái niệm “ngoại giao tre Việt Nam” đã phát triển song song với sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông Trọng khi ông củng cố vị trí nổi bật trong hệ thống lãnh đạo tập thể của Việt Nam trong những năm gần đây. Sự trỗi dậy về mặt chính trị của ông cũng phụ thuộc vào cơ may địa-chính trị của Việt Nam, khi cả Mỹ và Trung Quốc đều cạnh tranh để kéo Việt Nam về phía họ. Người ta có thể lập luận rằng “ngoại giao cây tre” của ông Trọng xuất phát từ sự tình cờ về mặt địa chính trị của Việt Nam hơn là từ sự đổi mới chính sách”.

    Còn trong một bài viết đăng trên Tạp chí Cộng sản ngày 06/06/2024, tiến sĩ Nguyễn Mạnh Hùng lưu ý “khái niệm (“ngoại giao cây tre”) là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước” (2). Tuy nhiên, sau 14 năm, đảng Cộng Sản Việt Nam có tổng bí thư mới. Đại tướng Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi lần lượt giữ chức chủ tịch nước và tổng bí thư, ít nhất cho đến Đại hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIV, dự kiến diễn ra vào tháng 01/2026.

    Di sản “ngoại giao cây tre” sẽ được tiếp tục như thế nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Vũ Khang, chuyên về an ninh Đông Á, trường Đại học Boston (Boston Collegue), Hoa Kỳ.

    RFI : Đảng Cộng Sản Việt Nam bước sang trang mới sau 14 năm lãnh đạo của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ có thay đổi như thế nào với sự kiện này ? Chiến lược “ngoại giao cây tre” sẽ vẫn được tiếp tục ?

    Vũ Khang : Chính sách đối ngoại của Việt Nam sẽ không có thay đổi gì dưới thời của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm vì có hai lý do chính.

    Thứ nhất, ngoại giao Việt Nam từ xưa đến nay vẫn có mục tiêu đầu tiên, đó chính là kiềm chế và trấn an được Trung Quốc. Quan hệ Việt Nam với Trung Quốc vẫn đang ổn định nên Việt Nam không có nhu cầu để phải có những thay đổi lớn trong ngoại giao. Nếu Việt Nam có những hành động thay đổi lớn trong chính sách “ngoại giao cây tre”, nhất là Việt Nam muốn mở rộng quan hệ ngoại giao đối với những nước “thù địch” với Trung Quốc thì điều đó có thể khiến Trung Quốc phật lòng. Và trong trường hợp đấy, Việt Nam sẽ phải hứng chịu những đáp trả không cần thiết từ Trung Quốc. Nhưng trong trường hợp hiện nay, Việt Nam với Trung Quốc hoàn toàn không có những lý do gì để hạ quan hệ ngoại giao song phương. Cho nên Hà Nội không có lý do gì để mà thay đổi đường lối “ngoại giao cây tre” hiện giờ.

    Đọc thêm : 2023: Năm thành công của "ngoại giao cây tre" Việt Nam

    Lý do thứ hai, chính sách đối ngoại của Việt Nam từ xưa đến nay vẫn do Bộ Chính Trị quyết định chứ không phải là do một cá nhân, bất kể cá nhân đấy có là tổng bí thư hay là chủ tịch nước đi chăng nữa. Cần phải hiểu rõ là chính mô hình của Bộ Chính Trị này tạo điều kiện cho một tập thể lãnh đạo, ra quyết sách, quyết định của đất nước, chứ không phải là một cá nhân. Cho nên, chừng nào các thành viên còn lại trong Bộ Chính Trị không muốn thay đổi đường lối chính sách “ngoại giao cây tre” hiện giờ thì việc thay đổi nhà lãnh đạo cấp cao nhất là tổng bí thư cũng sẽ không có tác động lớn đối với đường lối chính sách đối ngoại của Việt Nam.

    RFI : Như anh vừa nêu phần nào, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm hiện giờ là nhà lãnh đạo quyền lực nhất Việt Nam nhưng dường như lại không có nhiều kinh nghiệm đối ngoại, điều này có thác động như thế nào đến ngoại giao của Việt Nam, đặc biệt là với Trung Quốc và Hoa Kỳ ?

    Vũ Khang : Thực ra kinh nghiệm đối ngoại không quá quan trọng trong hoàn cảnh hiện nay. Nhất là khi các quyết sách ngoại giao của Việt Nam được thông qua bởi Bộ Chính Trị chứ không phải một cá nhân. Tóm lại, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm có thể không có kinh nghiệm ngoại giao nhiều như những người tiền nhiệm nhưng không có nghĩa là những người đồng chí ở trong Bộ Chính Trị hoặc những nhà hoạch định chính sách dưới quyền của ông Tô Lâm trong nước cũng không có kinh nghiệm ngoại giao nào cả.

    Có thể hình dung ra rằng ông Tô Lâm như là một người đại diện lớn nhất cho chính sách đối ngoại của Việt Nam chứ ông cũng chỉ là một nhân tố quyết định chính sách đối ngoại. Cho nên kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm, mặc dù về tương lai sẽ quan trọng, nhưng hiện giờ trong bối cảnh Việt Nam đang có sự thay đổi lớn về thượng tầng lãnh đạo, thì kinh nghiệm ngoại giao không phải là ưu tiên quan trọng nhất lúc này. Và cần phải nhấn rõ rằng kinh nghiệm ngoại giao cần phải được đúc kết về lâu về dài. Nhiều nhà lãnh đạo, kể cả những tổng thống của Mỹ hay những nước phương Tây khác, khi họ lên chưa chắc họ cũng đã có kinh nghiệm ngoại giao. Nhưng trải qua những lần công tác hay là những cuộc gặp quốc tế, họ dần trở nên bạo dạn hơn và có những tiếp xúc giúp cho họ có thêm kinh nghiệm để đối đáp với những đối tác nước ngoài.

    Điểm tiếp theo, đó là về mặt quan điểm chính sách đối ngoại của Việt Nam. Chính sách đối ngoại của Việt Nam không thay đổi, cho nên đấy mới là điều mà Mỹ với Trung Quốc muốn nghe nhất thời điểm này, hơn là kinh nghiệm ngoại giao của ông Tô Lâm. Bởi vì thực ra Mỹ với Trung Quốc đều hiểu rằng là chừng nào Việt Nam còn duy trì một vị trí trung lập, kinh nghiệm ngoại giao của người đứng đầu hệ thống đảng và nhà nước không quá là quan trọng.

    Đọc thêm : Việt Nam : Ngoại giao cây tre với Trung Quốc mang đặc tính « tân triều cống »RFI : Với nhiều nước Liên Hiệp Châu Âu, đặc biệt là Đức và Slovakia, khủng hoảng ngoại giao liên quan vụ bắt giữ ông Trịnh Xuân Thanh tại Berlin cũng như là những vấn đề nhân quyền tại Việt Nam, có còn là rào cản trong mối liên hệ với nhà lãnh đạo quyền lực nhất hiện nay không ?

    Vũ Khang : Các nước phương Tây vẫn giương cao ngọn cờ dân chủ, nhân quyền khi có những trao đổi qua lại với chính quyền Việt Nam. Đây cũng là một cách để họ có thể ép Việt Nam phải có những nhượng bộ về ngoại giao. Họ có thể sử dụng những lá bài này để lên án Việt Nam trên trường quốc tế nhằm làm tổn hại uy tín của Việt Nam. Tuy vậy, việc sử dụng ngọn cờ dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong rất nhiều phương thức để phương Tây bảo vệ quyền lợi của họ trong quan hệ với Việt Nam.

    Chính việc dân chủ, nhân quyền cũng chỉ là một trong nhiều phương thức tạo điều kiện cho phương Tây. Đôi khi họ đặt những quyền lợi cốt lõi của họ, quyền lợi về kinh tế hoặc là quyền lợi về chính trị, lên trên cả những giá trị phổ quát về dân chủ, nhân quyền. Đơn cử Mỹ chẳng hạn, trong quá khứ, Mỹ cũng đã rất nhiều lần cho thấy là họ cũng không ngần ngại hợp tác, tăng cường quan hệ với nhà nước độc đảng nếu các nhà nước độc đảng đó có chung lợi ích với Mỹ.

    Và chính Liên Hiệp Châu Âu cũng đã đánh tín hiệu với chính quyền của tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm là họ coi trọng, muốn hợp tác với chính quyền mới của ông khi phó chủ tịch Ủy Ban Châu Âu, đại diện cấp cao của Liên Hiệp Châu Âu (EU) về chính sách đối ngoại và an ninh, ông Josep Borrell đã đến Việt Nam và dự lễ tang của cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Sau khi dự lễ tang, ông đã có cuộc gặp với ông Tô Lâm. Chính cuộc gặp với một nhà lãnh đạo mới của Việt Nam cũng khẳng định rằng Liên Hiệp Châu Âu cũng không muốn những hiểu lầm, những sự kiện trong quá khứ làm tổn hại mối quan hệ giữa EU và nhà lãnh đạo mới của Việt Nam.

    Đọc thêm : Liên Hiệp Châu Âu muốn nâng cấp quan hệ với Việt Nam

    Cần phải nói rõ vai trò của Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu đang ngày càng đi lên, nhất là khi Mỹ và các đồng minh đang nỗ lực chuyển các cơ sở sản xuất ra khỏi Trung Quốc đến những nước “bớt thù nghịch hơn” như Việt Nam. Trong hoàn cảnh này, chính Liên Hiệp Châu Âu cũng không có lý do gì để một chuyện trong quá khứ hoặc những vấn đề dân chủ, nhân quyền làm tổn hại tương lai, lợi ích của họ khi chính họ cũng nhìn ra được rằng mở rộng hợp tác kinh tế với Việt Nam đang là xu thế toàn cầu và đang là một xu thế có lợi cho kinh tế của phương Tây.

    RFI : Mới đây, tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm đã điện đàm với tổng thống Nga và hai bên khẳng định về mối quan hệ song phương. Trong thời gian tới, mối quan hệ giữa Việt Nam và Nga sẽ đi theo hướng như nào ?

    Vũ Khang : Trước khi tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, vào tháng 07/2024, ông Tô Lâm đã là người đại diện cho chính quyền Việt Nam đón tổng thống Nga Vladimir Putin. Việc Nga gửi lời trao đổi với ông Tô Lâm trong tuần vừa rồi (ngày 08/08/2024) về việc Việt Nam và Nga muốn tăng cường quan hệ ngoại giao, thực ra không có gì là mới hay bất ngờ bởi vì từ xưa đến nay, chính sách đối ngoại của Nga luôn luôn coi Việt Nam là một trong những đối tác châu Á quan trọng song song với Ấn Độ khi mà Nga và Việt Nam có mối quan hệ quân sự từ rất lâu và quan hệ giữa hai nước chưa bao giờ gặp phải khủng hoảng đến mức trầm trọng như quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ hoặc với Trung Quốc.

    Đọc thêm : Việt Nam không ngại bị chỉ trích khi đón tổng thống Putin bị CPI truy nã vì "tội ác chiến tranh"

    Trong hoàn cảnh Việt Nam cũng nhận thấy rằng “ngoại giao cây tre” cần phải được liên tục phát triển và nhấn mạnh, thông qua việc Việt Nam tăng cường quan hệ với các đối tác lớn như Mỹ, Trung Quốc và Nga, việc Việt Nam và Nga có cuộc điện đàm để tái khẳng định chuyến thăm của ông Putin đến Hà Nội là một điều rất bình thường và cũng là một điều nằm trong chính sách đối ngoại “ngoại giao cây tre” của Việt Nam. Sự kiện đó cũng muốn tái khẳng định rằng chính sách “ngoại giao cây tre” của Việt Nam dưới thời tổng bí thư, chủ tịch nước Tô Lâm sẽ không có gì thay đổi so với thời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Vũ Khang, trường Đại học Boston, Hoa Kỳ.

    *******

    (1) Nguyen Phu Trong’s ‘Bamboo Diplomacy’: Legacy in the Making?

    (2) Trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong sự nghiệp đổi mới đất nước

  • Trong bối cảnh Việt Nam và Philippines phải tăng cường hợp tác để đối phó với Trung Quốc trên Biển Đông, giữa hai nước lại nảy sinh một vấn đề cần giải quyết, đó là vấn đề ranh giới ngoài thềm lục địa.

    Ngày 15/06/2024, bộ Ngoại Giao Philippines thông báo phái đoàn nước này tại Liên Hiệp Quốc đã đệ trình Báo cáo Ranh giới ngoài thềm lục địa ở Biển Đông ( mà họ gọi là Biển Tây Philippines ) lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc (CLCS) "để đăng ký quyền với vùng thềm lục địa mở rộng ở tây Palawan".

    Philippines cho biết họ đã mất 15 năm để chuẩn bị cho việc này, theo đúng Điều 76 trong Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982). Theo Công ước này, một quốc gia ven biển như Philippines có thể “thiết lập ranh giới ngoài của thềm lục địa, bao gồm vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, vượt 200 hải lý, nhưng không quá 350 hải lý từ đường cơ sở được dùng để tính chiều rộng lãnh hải”.

    Vấn đề là vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines muốn được công nhận có thể chồng lấn với những nước ven Biển Đông khác, đặc biệt là Việt Nam.

    Trả lời RFI Việt ngữ ngày 03/07, nhà nghiên cứu về Biển Đông Hoàng Việt nhắc lại:

    "Theo điều 76 của UNCLOS 1982, mỗi quốc gia sẽ có vùng thềm lục địa 200 hải lý tính từ đường cơ sở hướng ra ngoài. Ngoài ra, các quốc gia có thể có vùng thềm lục địa mở rộng có thể tối đa là 350 hải lý. Từ năm 2009, Việt Nam đã đệ trình Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa một báo cáo riêng của Việt Nam và một báo cáo chung với Malaysia ngày 06/05 và 07/05. Một ngày sau đó, 08/05, Trung Quốc đã gởi hai công hàm phản đối hai đệ trình đó. Trong hai công hàm đó có kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò".

    Sau đó, đến tháng 12/2019, phía Malaysia lại đệ trình một báo cáo mới về thềm lục địa mở rộng, trong bối cảnh sau phán quyết 2016 của Tòa Trọng Tài Thường Trực trong vụ Philippines kiện Trung Quốc. Mới đây nhất phía Philippines cũng tiếp tục đệ trình, theo đúng quy định của điều 76 trong UNCLOS 1982. Nhưng yêu cầu có được chấp thuận hay không thì đó lại là câu chuyện dài hơn rất nhiều.

    Ngay trong đệ trình của Philippines lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa, họ cũng đã nói rõ là vùng thềm lục địa mở rộng này của họ có khả năng sẽ chồng lấn với vùng thềm lục địa mở rộng của Việt Nam và của Malaysia. Mới đây nhất, Malaysia đã gởi công hàm phản đối, bởi vì giữa Malaysia và Philippines vẫn có tranh chấp về vùng Sabah, mà Manila cho là của Philippines, nhưng nay đang thuộc về Malaysia. Vùng thềm lục địa mở rộng mà Philippines yêu sách cũng nằm trong vùng thềm lục địa của Sabah.

    Đối với Việt Nam, một số nhà nghiên cứu khi đo bản đồ cũng đã thấy là một sự chồng lấn. Khả năng chồng lấn với Việt Nam là chắc chắn."

    Phản ứng về quyết định nói trên của Manila, Hà Nội, qua lời phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam Phạm Thu Hằng ngày 20/06, nhìn nhận quyền của Philippines:

    "Các quốc gia ven biển thành viên Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) có quyền xác định ranh giới ngoài thềm lục địa mở rộng của mình trên cơ sở phù hợp với quy định liên quan của UNCLOS 1982.”

    Nhưng phát ngôn viên bộ Ngoại Giao nhấn mạnh Việt Nam “bảo lưu toàn bộ quyền và lợi ích của mình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là UNCLOS 1982, và sẵn sàng trao đổi với Philippines để tìm kiếm và đi đến giải pháp phù hợp với lợi ích của cả hai nước.”

    Đáp lại tuyên bố nói trên của phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Việt Nam, ngày 01/07, bộ Ngoại Giao Philippines cho biết Manila "hoan nghênh" việc Hà Nội công nhận báo cáo của Manila đệ trình lên Liên Hiệp Quốc nhằm bảo đảm quyền của nước này đối với thềm lục địa mở rộng ở Biển Đông, đồng thời cho biết “sẵn sàng đàm phán với Hà Nội để giải quyết mọi vấn đề”, cũng như sẵn sàng hợp tác với Việt Nam “theo những cách khả thi để giúp đạt được giải pháp cùng có lợi cho các vấn đề ở Biển Đông”.

    Sau đó, ngày 17/07, tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Việt Nam đã chính thức nộp hồ sơ đệ trình Ranh giới thềm lục địa mở rộng ngoài 200 hải lý của Việt Nam ở khu vực giữa Biển Đông lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc.Trong công hàm gửi Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc António Guterres, Việt Nam một lần nữa khẳng định việc nộp đệ trình này "sẽ không ảnh hưởng tới công tác phân định biển giữa Việt Nam và các nước ven biển liên quan trên cơ sở UNCLOS".

    Nhưng liệu Việt Nam và Philippines có thể dễ dàng đạt được thỏa thuận để giải quyết sự chồng lấn về thềm lục địa mở rộng giữa hai nước hay không? Nhà nghiên cứu Hoàng Việt nhận định:

    "Chắc chắn là được thôi, khi mà cả hai quốc gia đều có thiện chí thì cũng dễ giải quyết. Việc chồng lấn là bình thường. Trên khu vực Biển Đông có rất nhiều sự chồng lấn. Việt Nam và Indonesia đã mất cả 12 năm để phân định vùng đặc quyền kinh tế. Hai nước đã công bố thỏa thuận qua tuyên bố năm 2022, nhưng cho đến bây giờ vẫn chưa thấy văn bản chính thức Việt Nam và Indonesia phân định như thế nào.

    Giữa Việt Nam với Philippines thì cũng đơn giản, vì thứ nhất là khi hai bên đều đòi hỏi vùng thềm lục địa mở rộng, thì chắc chắn là sẽ có sự chồng lấn và hai bên phải đàm phán. Nếu hai bên đều có thiện chí thì không khó, khó nhất là một bên, hoặc cả hai bên không có thiện chí. Trong đàm phán, hai bên đều phải nhân nhượng với nhau, để cùng chấp nhận một giải pháp hai bên cùng có lợi.

    Quan hệ giữa Việt Nam với Philippines về hợp tác trên biển cũng đã có từ lâu. Vài năm trước, hai nước đã ký một số thỏa thuận về thăm dò địa chấn, hợp tác nghiên cứu khoa học biển. Như vậy chủ trương hai bên đều có rồi, vấn đề còn lại là hai bên sẽ phải đàm phán trực tiếp, sẽ phân định như thế nào. Có lẽ đây sẽ là một quá trình khá dài, vì cả hai bên đều phải dựa trên những điều kiện địa lý tự nhiên của mình, đồng thời căn cứ trên luật pháp, cũng như những án lệ trước đây, để tìm ra một giải pháp công bằng nhất".

    UNCLOS quy định thời hạn cuối cùng để đệ trình thông tin về ranh giới ngoài thềm lục địa lên Uỷ ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS) là ngày 13/5/2009. Như vậy tại sao Philippines trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng tại Biển Đông 15 năm sau thời hạn cuối cùng?

    Theo nhà nghiên cứu Hoàng Việt, đệ trình của Philippines vào thời điểm này có thể có một số tính toán:

    "Cái đầu tiên là liên quan đến Trung Quốc. Từ năm 2013 đến nay, Trung Quốc và Philippines luôn luôn đối đầu ở khu vực biển của mấy thực thể, thứ nhất là Bãi Cỏ Mây, thứ hai là bãi cạn Scarborough và thứ ba là bãi cạn Sa Bin. Đặc biệt ở Bãi Cỏ Mây chúng ta đã thấy tình hình căng thẳng như thế nào. Gần đây nhất là sự kiện 17/06, nhiều tàu của Trung Quốc đã đâm thẳng vào tàu của Philippines, các thủy thủ Trung Quốc đã cầm rìu, dao găm và gậy tấn công các thủy thủ Philippines trên tàu của họ, cướp một số vũ khí, cũng như đồ đạc. Xung đột đã khiến một binh sĩ của Philippines bị mất một ngón tay cái.

    Đây không phải là sự kiện đầu tiên cũng như cuối cùng. Từ 2013 tới nay, những vụ va đâm tàu, phun vòi rồng và chiếu tia laser vào các thủy thủ Philippines đã xảy ra rất nhiều. Vào tháng 05/2009, việc Việt Nam và Malaysia đệ trình báo cáo về thềm lục địa mở rộng đã gây một làn sóng phản đối từ Trung Quốc. Lần thứ hai đó là vào tháng 12/2019, Philippines làm mới lại đệ trình của mình thì cũng đã gây ra cuộc chiến công hàm kéo dài đến 2021 mới chấm dứt. Các quốc gia đã liên tục gởi các công hàm lên Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa Liên Hiệp Quốc để thể hiện quan điểm của mình.

    Có lẽ đó là cái quan trọng mà Philippines tính tới: trong bối cảnh căng thẳng với Trung Quốc và chính sách của Philippines đang sử dụng là "name and shame", vạch trần những hành động côn đồ và phi pháp của Trung Quốc trên khu vực Biển Đông tranh chấp, thì Philippines hy vọng là sẽ có một làn sóng của công luận trên thế giới lên án Trung Quốc và điều này sẽ tác động phần nào đến cuộc đối đầu giữa hai nước.

    Ngoài ra, Philippines đương nhiên có những tính toán khác, trong đó có việc nhắc lại tác dụng của phán quyết 2016 trong vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc. Philippines cũng muốn tranh thủ lúc này Philippines đang có một đại diện trong Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc."

    Trong một bài viết đăng trên trang Vietnamnet ngày 29/06, đại sứ Việt Nam Nguyễn Hồng Thao, một chuyên gia pháp lý, cũng nhận định:

    "Trước hết, chính quyền tổng thống Marcos Jr. muốn khẳng định giá trị của Phán quyết Tòa Trọng tài Thường trực ngày 12/6/2016 trong vụ Philippines kiện Trung Quốc ở Biển Đông. Phán quyết này tạo khả năng cho phép mở rộng thềm lục địa từ các đảo chính của Philippines trong khi làm rõ mỗi thực thể biển ở quần đảo Trường Sa chỉ có tối đa lãnh hải 12 hải lý.

    Thứ hai, đệ trình có thể nhằm bác bỏ yêu sách đường chín đoạn của Trung Quốc.

    Thứ ba, Manila có thể muốn khẳng định tính pháp lý của đường cơ sở quần đảo Philippines năm 2012, đường này đã được sửa đổi cho phù hợp hơn với UNCLOS.

    Thứ tư, việc đệ trình tạo điều kiện kích hoạt điều 5 của Hiệp ước phòng thủ chung Philippines - Hoa Kỳ 1951, theo đó Mỹ có trách nhiệm bảo vệ các lực lượng vũ trang Philippines, các tàu và máy bay công vụ (bao gồm cả lực lượng cảnh sát biển) khỏi các cuộc tấn công vũ trang trong Biển Đông.

    Thứ năm, đệ trình có thể thúc đẩy tiến trình đàm phán Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) đang gặp bế tắc."

    Nhưng theo ông Nguyễn Hồng Thao, tranh chấp chủ quyền các thực thể trong quần đảo Trường Sa vẫn tồn tại sẽ làm nảy sinh tiếp vấn đề phân định biển của các vùng đáy biển thuộc lãnh hải của các thực thể này với yêu sách thềm lục địa mở rộng của Philippines.

    Ấy là chưa kể đến phản ứng của Trung Quốc. Ngày 18/07/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc cho rằng đệ trình của Việt Nam về thềm lục địa mở rộng "bao gồm một phần quần đảo Nam Sa ( Trường Sa ) của Trung Quốc và xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như quyền và lợi ích hàng hải của Trung Quốc, trái với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển".

    Trước đó, ngày 17/6/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Trung Quốc đã khẳng định “đệ trình đơn phương của Philippines về mở rộng thềm lục địa của họ tại Biển Đông xâm phạm tới các quyền chủ quyền và quyền tài phán của Trung Quốc, vi phạm luật quốc tế, bao gồm cả Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển và đi ngược lại Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông”.

  • Sau khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời ngày 19/07/2024, chủ tịch nước Tô Lâm, nguyên bộ trưởng Công An, tạm giữ chức tổng bí thư, câu hỏi đang được đặt ra là chiến dịch chống tham nhũng, còn được gọi là “chiến dịch đốt lò”, do ông Trọng phát động rồi sẽ đi đến đâu? Cùng với cuộc chiến chống tham nhũng, đấu đá trong nội bộ Đảng để giành chiếc ghế lãnh đạo tối cao sẽ diễn ra như thế nào từ đây đến Đại Hội Đảng năm 2026?

    RFI Việt ngữ phỏng vấn nhà nghiên cứu Lê Hồng Hiệp, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ở Singapore, về chủ đề này.

    RFI: Thưa anh Lê Hồng Hiệp, trước hết điểm lại những gì mà tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đạt được trong cuộc chiến chống tham nhũng do chính ông phát động kể từ khi lên lãnh đạo Đảng cách đây hơn 1 thập niên, anh nhận thấy có những điểm gì đáng ghi nhận?

    Lê Hồng Hiệp: “Có thể nói thành tựu quan trọng nhất của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng để lại chính là đã phát động và dẫn dắt thành công một chiến dịch chống tham nhũng có thể nói là “vô tiền khoáng hậu” nhắm vào các quan chức thuộc mọi cấp bậc.

    Từ năm 2011, khi bắt đầu nắm chức tổng bí thư, ông đã bắt đầu phát động chiến dịch này, nhưng do một số trở ngại, đặc biệt là có sự lãnh đạo chính phủ của ông Nguyễn Tấn Dũng thời bấy giờ, vai trò của Đảng và của ông Nguyễn Phú Trọng trong việc chống tham nhũng còn hạn chế. Tuy nhiên, kể từ năm 2016, khi ông Trọng đã củng cố được quyền lực, chiến dịch này đã tăng tốc rất mạnh, tạo ra một làn sóng thanh lọc trong nội bộ Đảng.

    Từ 2016 đến nay, có khoảng 139 ngàn đảng viên đã bị kỷ luật, trong đó có hơn 40 ủy viên Trung ương Đảng và 50 tướng lĩnh trong lực lượng quân đội, công an. Đặc biệt là trong khoảng thời gian từ 2021 đến nay, có 7 ủy viên Bộ Chính Trị, trong đó có những vị trong “tứ trụ”, như chủ tịch nước Võ Xuân Phúc, chủ tịch nước Võ Văn Thưởng, chủ tịch Quốc Hội Vương Đình Huệ và nguyên Thường trực Ban Bí thư Trương Thị Mai đã bị buộc phải thôi nhiệm vụ vì các lý do khác nhau liên quan đến các vụ tham nhũng. Để so sánh thì chúng ta thấy là từ 1986 đến 2016, không có một ủy viên Bộ Chính Trị nào bị cách chức vì tham nhũng, chỉ có 9 ủy viên Trung ương Đảng bị kỷ luật vì các vi phạm liên quan đến tham nhũng.

    Trong cương vị tổng bí thư, nhiệm vụ quan trọng nhất của ông Trọng là bảo vệ sự sinh tồn của Đảng, cũng như duy trì vai trò cầm quyền của Đảng. Ông luôn tâm niệm tham nhũng là mối đe dọa đối với sự tồn vong và vai trò lãnh đạo của Đảng, chính vì vậy ông luôn nhấn mạnh chống tham nhũng là biện pháp để duy trì vai trò của Đảng. Tham nhũng đã ăn rất sâu ở Việt Nam và đã gây tác hại rất lớn, đặc biệt là trong nhiệm kỳ của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã xảy ra nhiều vụ tham nhũng mà cho tới nay người ta vẫn phải mất rất nhiều công sức để giải quyết hậu quả.

    Bản thân ông Trọng cũng có nhu cầu dùng chiến dịch chống tham nhũng này để nâng cao vai trò kiểm soát của Đảng, đặc biệt là sau thời kỳ thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, giai đoạn mà vai trò của bên chính phủ đã lấn át vai trò của lãnh đạo Đảng. Cuộc chiến chống tham nhũng này cũng là một cách để giúp khôi phục vai trò kiểm soát của Đảng trong hệ thống chính trị. Qua đó gián tiếp củng cố vai trò, quyền lực cá nhân của ban lãnh đạo Đảng, trong đó có tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng."

    RFI: Như vậy những yếu tố nào đã giúp ông Nguyễn Phú Trọng có thể mạnh tay như thế trong chiến dịch chống tham nhũng?

    Lê Hồng Hiệp: "Ông Trọng hơi khác chút so với các lãnh đạo khác đó là ông được tiếng trong sạch thanh liêm, trong quá trình vươn lên nắm quyền, ông không dính vào các bê bối tham nhũng, ít nhất là cho đến lúc này. Chính vì vậy là ông có thẩm quyền đạo đức, có tiếng nói đủ lớn để có thể dẫn dắt cuộc chiến chống tham nhũng này mà không gặp sự kháng cự, không có các điểm yếu mà các đối thủ của ông có thể khai thác.

    Mặt khác, ông cũng có khả năng tập hợp được sự ủng hộ, hợp tác của một bộ phận lãnh đạo, từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cho tới bộ Công An và những cơ quan giúp thực thi chiến dịch này. Đặc biệt là ông Trọng đã đóng vai trò trong Đảng ủy Công an Trung ương, một vai trò mà các tổng bí thư trước ông Trọng chưa từng có, kiểm soát bộ Công An thành một công cụ hiệu quả trong việc chống tham nhũng. Nhờ vậy mà ông Trọng đã rất thành công trong việc thực hiện chiến dịch chống tham nhũng cho đến nay. Di sản đó được duy trì đến đâu trong thời gian tới? Đó vẫn là câu hỏi còn bỏ ngỏ.”

    RFI: Tuy chủ trương “Diệt chuột không để vỡ bình”, nhưng ta đã thấy là trong thời gian qua, kể cả các ủy viên Bộ Chính Trị cũng bị kỷ luật, bị cách chức. Vậy thì chiến dịch chống tham nhũng do ông Nguyễn Phú Trọng phát động đã có tác động như thế nào đến thượng tầng lãnh đạo của Đảng?

    Lê Hồng Hiệp:“Diệt chuột không để vỡ bình tức là không để ảnh hưởng tới sự sinh tồn của chế độ, không để những người mà Đảng xem là “các thế lực thù địch”, hoặc những người chống đối vai trò lãnh đạo của Đảng “lợi dụng” để làm suy yếu Đảng. Chính vì vậy mà trong quá trình chống tham nhũng, thay vì nâng cao vai trò của báo chí, xã hội dân sự, những thành phần có thể đóng góp vào cuộc chiến chống tham nhũng bằng cách phơi bày các quan chức tham nhũng, thì trong thời kỳ vừa qua, Đảng đã thắt chặt kiểm soát đối với báo chí và xã hội dân sự. Đảng muốn chống tham nhũng theo cách của Đảng và các biện pháp được thực hiện đều nằm trong sự kiểm soát của Đảng, không thể ảnh hưởng đến an ninh chế độ.

    Tuy nhiên, cách tiếp cận này cũng những tác dụng phụ nhất định: Ngoài việc thắt chặt đối với không gian công cộng, không gian xã hội dân sự, không gian tự do báo chí ở Việt Nam, khi người ta nhấn mạnh đến chống tham nhũng, trong một số trường hợp, cuộc chiến chống tham nhũng biến thành công cụ tranh giành quyền lực hoặc thanh lọc các đối thủ chính trị. Rất nhiều lãnh đạo, kể cả trong “tứ trụ”, đã bị loại bỏ, bị thay thế, dẫn đến biến động trong cấu trúc thượng tầng lãnh đạo của đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, họ sẽ không cho phép những biến động này ảnh hưởng tới an ninh của chế độ.

    Một tác dụng phụ khác, đó là cuộc chiến chống tham nhũng này cũng tạo ra cảm giác bất an, xuống tinh thần, trong một bộ phận cán bộ, công chức, thể hiện qua việc họ thường xuyên đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, hay tránh đưa ra các quyết định về các dự án hay các quyết định đầu tư, do lo sợ trách nhiệm về mặt pháp lý khi đưa ra các quyết định mà sau này có thể bị coi là có vi phạm, ảnh hưởng tới sinh mệnh chính trị của họ. Việc đùn đẩy trách nhiệm, né tránh ra quyết định cũng ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.

    Về lâu dài, những biến động về chính trị và trì trệ về kinh tế cũng là những thách thức mà Đảng không thể bỏ qua, trong ngắn hạn không phải là vấn đề, nhưng nếu nó kéo dài quá lâu thì sẽ ảnh hưởng tới phát triển kinh tế, ổn định chính trị của đất nước và làm giảm uy tín của Đảng. Chính vì vậy, tôi nghĩ trong tương lai có thể họ sẽ phải có một số điều chỉnh, không để các tác dụng phụ này kéo dài, ảnh hưởng quá lớn đến vai trò, uy tín của Đảng, cũng như sự phát triển của đất nước.”

    RFI: Ngay trước khi ông Nguyễn Phú Trọng qua đời, Bộ Chính Trị đã giao cho ông Tô Lâm tạm nắm quyền tổng bí thư, không biết ông sẽ nắm chức vụ này đến lúc nào, nhưng có vẻ như ông Tô Lâm đang có lợi thế rất lớn để tranh chức tổng bí thư sau này. Liệu có nguy cơ là kể từ nay ông có toàn quyền để tiếp tục chống tham nhũng nhưng là để củng cố thế lực cá nhân của ông?

    Lê Hồng Hiệp: “Hiện tại ông Tô Lâm có một số lợi thế trong việc kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng. Tuy nhiên việc bầu ông Tô Lâm hay ai đó thì vẫn còn phải chờ quyết định của Bộ Chính Trị và Trung ương Đảng. Tuy nhiên, bất kể ai được bầu chọn thì cũng sẽ tiếp tục cuộc chiến chống tham nhũng này. Lý do thứ nhất đó là di sản ông Nguyễn Phú Trọng để lại quá lớn. Người kế nhiệm ông Trọng không thể làm ngơ trước di sản đó, không thể một sớm một chiều lật ngược di sản đó. Di sản quan trọng nhất của ông là chống tham nhũng, vì vậy người kế nhiệm sẽ gặp áp lực rất lớn, không thể không tiếp tục cuộc chiến này, để thể hiện tính chính danh của Đảng, cũng như của bản thân người đó.

    Thứ hai, bản thân người kế nhiệm cũng thấy có lợi ích trong việc duy trì cuộc chiến chống tham nhũng này, cụ thể là sẽ tiếp tục sử dụng nó như một công cụ hiệu quả để kiểm soát nội bộ và có thể hướng tới kiểm soát các đối thủ chính trị, thông qua việc thanh trừng những người có thể là nguy cơ đối với quyền lực của họ. Cuộc chiến chống tham nhũng này vẫn sẽ tiếp tục dưới thời lãnh đạo mới. Vấn đề đặt ra là cách thức tiến hành của họ sẽ như thế nào, quy mô, cũng như cường độ của cuộc chiến sẽ ra sao.

    Có thể sẽ có một số điều chỉnh, ví dụ như họ có thể có những sáng kiến mới để vừa duy trì được nhiệm vụ chống tham nhũng, vừa hóa giải được một số thách thức về phát triển kinh tế xã hội phù hợp với mục tiêu của nhà lãnh đạo mới, tức là vừa duy trì được quyền lực, vừa có thể chống tham nhũng, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, cũng như duy trì được sự ổn định trong thượng tầng kiến trúc của hệ thống chính trị. Liệu ông Tô Lâm, hay một ai đó, có sẽ thay đổi cách tiếp cận hay không? Chúng ta hãy chờ xem.”

  • Chủ tịch nước Tô Lâm trở thành người quyền lực nhất Việt Nam khi kiêm nhiệm chức tổng bí thư đảng Cộng Sản từ ngày 18/07/2024. Giới quan sát và truyền thông phương Tây đều cho rằng ông Tô Lâm « có khả năng củng cố quyền lực hơn nữa ».

    Là người trực tiếp chống tham nhũng và cũng là « người cuối cùng trụ lại », ông Tô Lâm sẽ tiếp tục sự nghiệp của ông Nguyễn Phú Trọng nhưng « phục vụ cả lợi ích riêng », theo nhận định của giáo sư Zachary Abuza, Trường Chiến tranh Quốc gia Washington.

    Việc được bầu làm chủ tịch nước được coi là « bước đệm » cho chức vụ lãnh đạo đảng. Và ông không ngồi vào ghế chủ tịch nước nếu thực sự chưa bố trí được người thân cận thay ông làm bộ trưởng Công An. Loại hết mọi đối thủ, trong đó có hai chủ tịch nước, một chủ tịch Quốc Hội, để nắm giữ, dù tạm quyền, cả hai chức vụ cao nhất của Việt Nam - tổng bí thư và chủ tịch nước - là « một thắng lợi hoàn toàn » của ông Tô Lâm, theo giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).

    Ông đánh giá : « Đây là một chính trị gia vô cùng quyền lực, nhận được sự ủng hộ của một bộ (Công An) nằm trọng tâm của dự án chính trị. Chúng ta sẽ thấy một sự cá nhân hóa quyền lực xung quanh ông ». Trả lời RFI Tiếng Việt ngày 19/07, chuyên gia về Việt Nam Benoît de Tréglodé, nhấn mạnh sẽ « không có đoạn tuyệt », mà là « tiếp nối » chính sách của người tiền nhiệm. Có nghĩa là chiến dịch « đốt lò » sẽ tiếp diễn, nhưng được điều phối để tránh ảnh hưởng sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư nước ngoài.

    RFI : Ông Tô Lâm dường như từng không muốn trở thành chủ tịch nước Việt Nam nếu như chỉ giữ một mình chức vụ này nhưng hiện giờ ông đang giữ vị trí mà ông Võ Văn Thưởng phải từ bỏ. Chức vụ mà ông Tô Lâm thực sự nhắm tới là tổng bí thư đảng Cộng Sản, hiện giờ ông được bộ Chính Trị chỉ định thay thế cố tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Như vậy ông kiêm nhiệm hai chức vụ cao nhất. Liệu cuối cùng thời điểm có đến sớm hơn so với dự kiến không ?

    Benoît de Tréglodé : Trước tiên phải nhớ rằng ông Tô Lâm suy ngẫm đến việc này từ nhiều năm nay. Ý thức rõ về vị trí bộ trưởng Công An của mình, ông đã chiếm được vị trí trung tâm chiến lược trong bộ máy Nhà nước. Cũng đừng quên rằng công an luôn là một yếu tố an ninh vô cùng quan trọng trong việc bảo vệ chế độ từ bên trong trước những chuyển biến chung của thời đại và xã hội. Nhờ vị trí chiến lược đó mà ngay từ đầu, ông Tô Lâm đã là một ứng cử viên có tiềm năng lớn để thay thế ông Nguyễn Phú Trọng.

    Vị trí chủ tịch nước có tầm quan trọng tương đối hình thức trong hệ thống chính trị Việt Nam, ông Tô Lâm không quan tâm trực tiếp đến chức vụ này. Nếu ông chấp nhận đảm nhiệm vai trò chủ tịch nước, đó là vì ông biết dù sao đi nữa thì ông Nguyễn Phú Trọng cũng không còn nhiều thời gian và chức chủ tịch nước thực sự chỉ là hình thức chuyển tiếp đối với ông. Xin nhắc lại là trong lịch sử chính trị Việt Nam đã có một số lần vị trí chủ tịch nước và tổng bí thư do cùng một người đảm nhiệm, ví dụ sau khi chủ tịch nước Trần Đại Quang mất, ông Nguyễn Phú Trọng kiêm nhiệm từ năm 2019 đến 2021.

    Hiện giờ, có lẽ chính việc tạm quyền, điều mà ông từng ngóng đợi và hy vọng đó, sẽ đưa ông giữ chức vụ này ít nhất cho đến đại hội sắp tới của đảng Cộng Sản Việt Nam, vào đầu năm 2026. Cho nên, xin nhắc lại, đó là điều mà ông Tô Lâm đã tính toán.

    RFI : Tại sao « đây là một thắng lợi hoàn toàn đối với ông » Tô Lâm, theo đánh giá của ông với một số cơ quan truyền thông Pháp ?

    Benoît de Tréglodé : Điều đầu tiên cần ghi nhận là trong những năm qua, với sự thay đổi của bối cảnh quốc tế, các cuộc khủng hoảng kinh tế thường xuyên, khủng hoảng Covid-19, tất cả các xã hội đều suy yếu. Vì vậy mục tiêu của các nhà lãnh đạo đất nước - vốn khá độc đoán - là làm mọi cách để bảo vệ sự phát triển yên bình của đất nước.Và nhìn từ góc độ này, trật tự là một khái niệm cực kỳ quan trọng. Đó cũng là điểm chung đã đưa ông Nguyễn Phú Trọng đến gần ông Tô Lâm hơn, lúc đó mới chỉ là bộ trưởng Công An chứ không phải là người kế thừa.

    Mối quan hệ giữa ông Nguyễn Phú Trọng và ông Tô Lâm đôi lúc vô cùng sóng gió. Nhưng rõ ràng họ có chung quan niệm là xã hội Việt Nam phải có kỷ cương, không thể để đất nước được quản lý theo cách « hỗn loạn, bất ổn » và cần phải cân bằng giữa chủ trương « cởi mở về chính trị » và quan niệm « chặt chẽ về trật tự ». Do đó, trật tự và việc duy trì trật tự là trọng tâm trong dự án chính trị của hai nhà tư tưởng cực kỳ thực dụng này. Cả hai đều chưa bao giờ thực sự muốn xem xét lại sự cân bằng quyền lực truyền thống với Bắc Kinh, cũng như các nước lớn khác trên trường quốc tế. Mục tiêu là tránh bất ổn trong nước và cho phép kinh tế xoa dịu bớt những khát vọng tiềm tàng của người dân trong việc đòi hỏi nhiều quyền tự do hơn.

    RFI : Liệu « chiến thắng » này có khả năng kéo dài đến sau cả Đại hội đảng ?

    Benoît de Tréglodé : Có. Phải nói là lịch sử thường không phải là nhà cố vấn hay lắm nhưng đôi khi thì ngược lại. Người ta vẫn nhớ đến một nhân vật ít nổi tiếng nhưng cuối cùng lại để lại một chút dấu ấn trong ký ức, đặc biệt là ở nước ngoài, trong đó có Pháp. Đó là bộ trưởng bộ Công An đầu tiên của Việt Nam, ông Trần Quốc Hoàn. Trong thời gian rất dài, gần 28 năm, từ năm 1953 đến 1981, ông Trần Quốc Hoàn đứng đầu một bộ nòng cốt, mà hiểu được cách vận hành của bộ này giúp nắm được sự hình thành chế độ chính trị Việt Nam.

    Có thể hình dung là ông Tô Lâm lấy tấm gương lịch sử này để làm hình mẫu. Ông Trần Quốc Hoàn trở thành bộ trưởng bộ Công An năm 36 tuổi. Đây không phải là trường hợp của ông Tô Lâm khi ông giữ vị trí được đánh giá là quan trọng trong bộ máy Việt Nam. Nhưng dù sao gương mặt lịch sử này có ý nghĩa quan trọng để hiểu điều mà ông Tô Lâm muốn làm với chế độ chính trị Việt Nam và cách ông đã thành công trong vòng 3-4 năm vừa qua, đưa bộ Công An và người của ông vào vị trí không ai cạnh tranh được. Trong bộ máy Nhà nước, cũng như trong bộ Chính Trị và trong chính phủ, người xuất thân từ bộ Công An hiện giờ không có đối thủ cạnh tranh.

    RFI : Việc ông Tô Lâm kiêm nhiệm hai chức vụ cao nhất, ít nhất cho đến kỳ Đại hội đảng, có thể dẫn đến những thay đổi nào trong nội bộ ?

    Benoît de Tréglodé : Sẽ không có thay đổi lớn nào. Trước tiên, đó là một kế hoạch chính trị đã được suy tính. Chúng ta nhớ là vào kỳ họp toàn thể của đảng Cộng Sản vào mùa thu 2023, vấn đề kế nhiệm ông Nguyễn Phú Trọng còn chưa ngã ngũ. Ông Tô Lâm thực sự không muốn có một cái tên nào khác nổi lên. Bị rơi vào tình thế khá tế nhị đó, ông Nguyễn Phú Trọng buộc phải quyết định là đích thân ông chỉ đạo tiểu ban nhân sự đảng. Đây là điểm quan trọng để hiểu được thời điểm căng thẳng lúc đó. Ông Tô Lâm, nhân vật quyền lực số hai của chính quyền lúc đó, đã tính toán và chuẩn bị cho mục tiêu của mình.

    Một điểm quan trọng khác vào thời điểm đó, đó là ông Tô Lâm đã lãnh trách nhiệm về các chiến dịch chống tham nhũng, lĩnh vực trước đây nằm trong tay ông Nguyễn Phú Trọng. Vì vậy, sự chuyển tiếp đã được được bắt đầu từ nhiều tháng, thậm chí là nhiều năm qua, cho nên đừng mong là sẽ có những thay đổi lớn nào đó xảy ra từ giờ cho đến Đại hội đảng Cộng Sản sắp tới. Ông Tô Lâm hoàn toàn ý thức được rằng từ giờ ông kiểm soát bộ máy nhà nước Việt Nam. Và ông cũng ý thức được hình ảnh của ông, cũng như trách nhiệm về hình ảnh của ông ở nước ngoài. Không có chuyện khiến các đối tác thương mại lớn nước ngoài sợ hãi. Đảng không có phương tiện, chính phủ cũng vậy. Tôi nghĩ rằng ông Tô Lâm sẽ duy trì tư duy khá cổ điển, có nghĩa là chính sách « ngoại giao cây tre » nổi tiếng. Mô hình ngoại giao này không phải do ông Nguyễn Phú Trọng tạo ra mà đã có từ rất lâu trong nền chính trị Việt Nam. Và tôi nghĩ ông Tô Lâm sẽ tiếp tục chiến lược này.

    RFI : Các đối tác phương Tây sẽ có hình ảnh như thế nào về chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Tô Lâm, cũng như về chính phủ Việt Nam khi những kỷ niệm mà ông Tô Lâm để lại ở Đức và Slovakia không hẳn tốt đẹp lắm trong vụ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh ?

    Benoît de Tréglodé : Trước tiên, thường thì người ta chóng quên những chuyện liên quan đến chính trị. Tôi cho rằng chủ nghĩa thực dụng đang chiếm ưu thế và đặc biệt là đối với các đối tác lớn nước ngoài đang làm việc với Hà Nội, cũng như những đại tập đoàn nước ngoài đầu tư vào Việt Nam và các nước đang mong muốn tăng cường hợp tác song phương với Việt Nam. Những hành xử độc đoán trong quá khứ sẽ bị lãng quên khá nhanh chóng.

    Hơn nữa, trong vòng một năm rưỡi cho đến kỳ Đại hội đảng lần tới, ông Tô Lâm sẽ tiếp tục công cuộc mà Nguyễn Phú Trọng đã thực hiện, tức là cách thức mà cố tổng bí thư đã xây dựng vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và trong khu vực với một lập trường khá khéo léo, uyển chuyển giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ và tất nhiên là vị trí của Việt Nam trong khu vực, như trong khối ASEAN hoặc với các cường quốc Đông Bắc Á. Đứng từ quan điểm này, chủ trương chuyên chế về chính trị với trong nước của ông Tô Lâm sẽ được phối hợp với một chủ nghĩa thực dụng về kinh tế cực kỳ mạnh mẽ.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giám đốc nghiên cứu Benoît de Tréglodé, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).

  • Ngày 12/07/2024 đánh dấu tròn 8 năm Tòa Trọng Tài Quốc Tế xác định rằng các yêu sách hàng hải mở rộng của Trung Quốc ở Biển Đông là không phù hợp với luật pháp quốc tế. Phán quyết cuối cùng của Tòa đã được Việt Nam “hoan nghênh” cùng với tuyên bố “ủng hộ mạnh mẽ việc giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông bằng các biện pháp hòa bình”.

    Tám năm sau, Việt Nam, Philippines vẫn phải đối phó với những hành động bạo lực, hăm dọa của Trung Quốc trong chiến lược “mưa dầm thấm lâu” độc chiếm Biển Đông (1). “Các hành động của Trung Quốc phản ánh sự coi thường trắng trợn đối với luật pháp quốc tế”, theo thông cáo của ngoại trưởng Mỹ ngày 11/07. Phía Liên Hiệp Châu Âu khẳng định trong một tuyên bố ngày 12/07 rằng phán quyết của Tòa Trọng Tài Thường Trực năm 2016 có giá trị ràng buộc pháp lý đối với các bên liên quan. Tuy nhiên, đối với Bắc Kinh, chỉ có luật quốc gia của Trung Quốc mới có giá trị ở Biển Đông, theo nhận định của nhà phân tích, nghiên cứu độc lập Lénaïck Le Peutrec trong buổi phỏng vấn với RFI Tiếng Việt ngày 11/07/2024.

    Chiến lược này được ban thành luật về vùng lãnh hải tháng 02/1992. Thoạt nhìn định nghĩa “lãnh hải” của Bắc Kinh phù hợp với Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982 mà Trung Quốc là thành viên. Nhưng điểm nguy hiểm nằm ở tuyên bố 1958, được nhắc lại trong bộ luật 1992, theo đó lãnh thổ đất liền của Trung Quốc bao gồm Đài Loan và các nhóm đảo khác như Sankaku/Điếu Ngư (tranh chấp với Nhật Bản), Bành Hồ, Đông Sa, Tây Sa (quần đảo Hoàng Sa), Nam Sa (quần đảo Trường Sa).

    RFI : Lénaïck Le Peutrec, bà là tác giả bài phân tích “Trung Quốc trong những xung đột ở Biển Đông : giải mã một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa”, đăng trên Asia Focus tháng 05/2024 của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế và Chiến lược Pháp - IRIS (2). Trong bài viết, bà nhấn mạnh rằng luật về lãnh hải năm 1992 là một bộ luật quốc gia, thúc đẩy Trung Quốc tiếp tục những đòi hỏi chủ quyền ở Biển Đông theo từng chặng, để tạo thành những “chuyện đã rồi” bất chấp luật pháp quốc tế. Theo thời gian, những tích tụ đó chuyển thành một sự thay đổi chiến lược quan trọng. Vậy chiến lược của Trung Quốc là gì ? Liệu vì những yêu sách đó, Trung Quốc sẽ không bao giờ nhân nhượng ở Biển Đông ?

    Lénaïck Le Peutrec : Những yêu sách lãnh thổ của Bắc Kinh ở Biển Đông nằm trong nỗ lực toàn vẹn lãnh thổ rộng lớn hơn của Trung Quốc. Cho nên chúng được ghi khắc trong những lợi ích cơ bản của Trung Quốc, giống như đối với đảo Đài Loan. Bắc Kinh đưa ra lập luận đòi chủ quyền dựa vào các quyền lịch sử, nguyên tắc hiện diện lâu đời được cho là được chứng thực bằng các văn bản có từ thời nhà Tống, tức là từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ 13.

    Do đó, Bắc Kinh tuyên bố chủ quyền đối với 80 đến 90% diện tích Biển Đông. Yêu sách này được chính thức ghi trong tài liệu “đường 9 đoạn”, lần đầu tiên được chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa công bố chính thức bằng một công hàm ngoại giao gửi tới Liên Hiệp Quốc vào tháng 05/2019. Bản thân tuyên bố này đã là một hành động kiểu “chuyện đã rồi”. Thêm vào đó còn có rất nhiều luật quốc gia khác củng cố cho những đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông và Bắc Kinh viện vào đó để biện minh cho hành động của họ.

    Đọc thêm : Biển Đông: Trung Quốc toan tính gì khi lập 2 ‘quận’ mới cho ‘Tam Sa’ ?

    Như vậy luật về vùng lãnh hải năm 1992 đã chọn định nghĩa rộng hơn về các vùng biển của Trung Quốc, trên thực tế bao gồm cả quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, trong khi Philippines, Việt Nam và Đài Loan cũng tuyên bố chủ quyền. Chính nhờ dựa vào những quyền lịch sử từ xa xưa, không thể chối cãi ở Biển Đông và dựa trên luật pháp quốc gia xác quyết chủ quyền - được coi là “chuyện đã rồi” - mà Trung Quốc liên tục đưa tầu đánh cá vào các vùng biển có tranh chấp, thường xuyên tổ chức tuần tra hải cảnh, tiến hành hoạt động bồi đắp, xây dựng đảo và thành lập các đơn vị, cơ quan hành chính mà trên thực tế là để thiết lập chủ quyền.

    RFI : Tháng 03/2024, Trung Quốc thông báo xác lập đường cơ sở ở vịnh Bắc Bộ. Thêm vào đó là hành động hung hăng, ví dụ những sự cố với Philippines ở Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough trong thời gian gần đây… Phải chăng tất cả những hành động đó nằm trong chiến lược khẳng định chủ quyền của Trung Quốc ?

    Lénaïck Le Peutrec : Việc phân định đường cơ sở là một chủ đề hết sức nhạy cảm ở Biển Đông để chúng ta có thể hiểu được bản chất chiến lược. Bởi vì Biển Đông là nơi chồng chéo những yêu sách chủ quyền giữa phần lớn các quốc gia ven biển. Các đường cơ sở có tính chiến lược mạnh mẽ vì chúng chi phối việc tính toán đường biên giới lãnh thổ của quốc gia ven biển, vùng nội thủy và các vùng biển nằm trong quyền tài phán của họ. Những vùng biển này là các vùng lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế.

    Đọc thêm : Vịnh Bắc Bộ: Trung Quốc muốn vẽ lại ranh giới khi công bố "đường cơ sở" mới?

    Qua đó, người ta có thể thấy đó là “cánh tay nối dài” trong hành động áp đặt chủ quyền của Trung Quốc trên thực tế. Như tôi giải thích, phương thức hoạt động của Bắc Kinh bắt đầu từ một “chuyện đã rồi”. Trường hợp này chính là một ví dụ vì Trung Quốc đơn phương tuyên bố một đường cơ sở mới. Điều đáng quan ngại là Trung Quốc tiếp tục áp dụng cách hành động duy nhất đó, có nghĩa là viện đến luật quốc gia để áp đặt cơ sở pháp lý cho những hành động của họ.

    Những sự cố gần đây trong khu vực Bãi Cỏ Mây và bãi cạn Scarborough nằm trong chiến lược hành động của Trung Quốc ở Biển Đông từ năm 2004. Cần phải lưu ý rằng những hành động này còn được củng cố thêm nhờ những biện pháp mới trong luật hải cảnh, có hiệu lực từ ngày 15/06/2024, cho phép bắt giữ tàu nước ngoài ở Biển Đông và giam giữ thủy thủ đoàn mà không cần xét xử.

    RFI : Vẫn trong bài viết trên Asia Focus của Viện IRIS, bà nhấn mạnh rằng “chính sách láng giềng hữu hảo của Trung Quốc hiện nay, được suy tính để cổ vũ việc hội nhập kinh tế trong vùng, có thể được coi là một tầm nhìn được cập nhật về hệ thống triều cống của đế quốc Trung Quốc”. Tại sao nên cảnh giác với chính sách này ? Các nước láng giềng sẽ gặp rủi ro gì trong xung đột chủ quyền ở Biển Đông với Trung Quốc ?

    Lénaïck Le Peutrec : Trong câu hỏi này có những yếu tố lịch sử và văn hóa mà tôi cho rằng cần phải nêu bật, song song với những yếu tố thực tế, để hiểu đầy đủ hơn về hành động của Trung Quốc.

    Yếu tố đầu tiên mà tôi muốn lưu ý là tầm nhìn mang tính chu kỳ về lịch sử mà Trung Quốc vẫn chia sẻ. Điều này có thể được tóm tắt hoàn hảo trong câu tục ngữ Trung Quốc, tạm dịch “thống nhất lâu dài thì phải chia cắt, chia rẽ lâu thì phải đoàn tụ”. Nền văn minh Trung Quốc được đánh dấu bằng một lập luận lịch sử, theo đó “sau phân chia sẽ là sự thống nhất”.

    Điểm thứ hai, tôi muốn đề cập đến cách nhìn của Trung Quốc về vị trí trung tâm. Ngay tên gọi “Trung Quốc” - có nghĩa là “vùng đất ở giữa” - đã thể hiện rõ cách nhìn đó. Xuất phát từ vị trí trung tâm, Trung Quốc sống theo cách hiểu về địa lý thế giới xung quanh được định nghĩa theo cách nhìn của họ. Có thể thấy đa số những vùng lãnh thổ mà Trung Quốc tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông được đặt tên theo vị trí của chúng so với Trung Quốc, ví dụ quần đảo Hoàng Sa (Paracels) được gọi là Tây Sa, Trường Sa (Spratleys) là Nam Sa, bãi ngầm Macclesfield là Trung Sa.

    Đọc thêm : Khó khăn kinh tế Trung Quốc đe dọa ASEAN

    Chính sách láng giềng hữu hảo của Bắc Kinh cũng thể hiện một phần tầm nhìn về vai trò trung tâm của Trung Quốc. Trên thực tế, chính sách - được lập ra để khuyến khích hội nhập kinh tế khu vực - có thể được coi như là một quan niệm được cập nhật về hệ thống triều cống của đế chế Trung Hoa, dựa trên tính trung tâm của họ. Những điều kiện dễ dàng về kinh tế và thương mại được Trung Quốc chấp thuận thời nay thay thế cho sự bảo vệ của họ ngày trước, còn quyền lực và những lợi ích mà họ thu được thay cho những cống vật của các nước chư hầu ngày xưa. Tình thế này để lại rất ít khả năng hành động cho các nước ven biển láng giềng - những nước không có sức mạnh kinh tế hoặc năng lực tấn công quân sự như Trung Quốc.

    Cuối cùng phải nhắc đến việc ASEAN gần như tê liệt. Nội bộ Hiệp hội các nước Đông Nam Á bất đồng nhau trong xung đột lãnh thổ với Trung Quốc. Từ nhiều năm nay, ASEAN tìm cách thông qua một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) mà họ muốn có tính ràng buộc về mặt pháp lý nhưng đến giờ vẫn bị Bắc Kinh một mực phản đối.

    RFI : Tại sao Biển Đông lại là một khu vực thử nghiệm để Trung Quốc áp đặt tầm nhìn của họ về một trật tự thế giới mới, như bà nêu trong bài phân tích ?

    Lénaïck Le Peutrec : Trước tiên, tôi nghĩ là cần phải hiểu được những yêu sách chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông hay đúng hơn là những động cơ của họ. Theo tôi, có ba động cơ.

    Thứ nhất về mặt khai thác, việc bảo đảm tiếp tục các hoạt động đánh bắt hải sản, bảo vệ và khai thác các nguồn năng lượng, khoáng sản là việc cần thiết cho sự thúc đẩy phát triển của Trung Quốc. Tiếp theo là phải bảo đảm các nguồn tiếp cận với các tuyến hàng hải, đặc biệt là ưu tiên tiếp cận Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương vì đây là những tuyến đường thiết yếu để dòng chảy thương mại của Trung Quốc được luân chuyển. Về mặt an ninh, việc tự do lưu thông ở Biển Đông là phương tiện quan trọng cho uy tín về năng lực răn đe trên biển của Trung Quốc. Phần lớn các căn cứ tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Trung Quốc nằm trên đảo Hải Nam, ở phía bắc Biển Đông.

    Đọc thêm : Vai trò trung tâm của ASEAN trước thách thức của cạnh tranh Mỹ - Trung

    Cũng đừng quên sự hiện diện mạnh mẽ của Mỹ trong khu vực làm tăng thêm cảm giác bất an của Trung Quốc, cũng như việc Hoa Kỳ tăng cường rõ rệt các liên minh với các nước trong khu vực trong thời gian gần đây để công khai chống lại sự trỗi dậy ngày càng tăng của Trung Quốc. Cấu trúc địa lý của Biển Đông cũng đặt Trung Quốc vào thế bị lọt thỏm và phụ thuộc lớn vào eo biển Malacca, tuyến đường thương mại chính của nước này. Từ năm 2023, Trung Quốc đã nhấn mạnh đến sự phụ thuộc quá mức của họ vào điểm trung chuyển này, cùng với sự bấp bênh về nguồn cung năng lượng do thiếu tuyến hàng hải thay thế.

    Bị thúc đẩy vì cảm giác bất an, Trung Quốc quyết tâm bảo đảm các lợi ích cơ bản của họ, bao gồm cả việc thống nhất đất nước, vốn là trọng tâm trong chính sách tái sinh vĩ đại của Trung Quốc và cũng là chính sách quan trọng hàng đầu của kỷ nguyên Tập Cận Bình. Những động cơ này của Trung Quốc khiến chúng ta nghĩ rằng Bắc Kinh có lẽ sẽ thử phản ứng của cộng đồng quốc tế về Biển Đông bằng cách dần dần gặm những không gian mà họ tuyên bố thuộc về mình. Do đó, Biển Đông sẽ là địa điểm thử nghiệm đầu tiên về một trật tự mới mang màu sắc Trung Hoa, trước khi chuyển sang giai đoạn tiếp theo, đó là thống nhất với đảo Đài Loan.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà phân tích, nghiên cứu Lénaïck Le Peutrec.

    (2) Lénaïck Le Peutrec, "La Chine dans les conflits en mer de Chine méridionale : décryptage d’un nouvel ordre aux caractéristiques chinoises", Asia Focus, mai 2024, IRIS.

  • Khi tiếp tổng thống Vladimir Putin, Hà Nội muốn "viết tiếp chương mới trong lịch sử quan hệ hữu nghị Việt Nam - Liên bang Nga" (1). Việt Nam không có lợi khi Nga suy yếu hoặc bị gạt ra ngoài lề trên trường quốc tế vì đối tác chiến lược toàn diện này giúp Hà Nội cân bằng trước những áp lực từ Trung Quốc và Mỹ (2).

    Việt Nam đã lường mọi phản ứng khi mời và tiếp đón tổng thống bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy nã vì phạm "tội ác chiến tranh" ở Ukraina.

    Chuyến công du của ông Putin được quảng bá rầm rộ hơn hẳn những chuyến thăm cấp Nhà nước trước đó dù Hà Nội phần nào lo ngại bị phương Tây cho là "liên kết ngầm" khi ông Putin kết hợp với chuyến thăm Bình Nhưỡng (3). Hiện giờ, chỉ có Mỹ lên tiếng chỉ trích nhưng đồng thời cử ngay trợ lý ngoại trưởng Hoa Kỳ, phụ trách Đông Á - Thái Bình Dương Daniel Kritenbrink đến Hà Nội. Đặc sứ Mỹ không bình luận về đối ngoại của Việt Nam nhưng lưu ý "chỉ có Việt Nam có thể quyết định cách tốt nhất để bảo vệ chủ quyền và thúc đẩy các lợi ích".

    Vậy Hà Nội tính toán gì và được lợi gì khi tiếp đón tổng thống Nga Putin ? Phản ứng của các đối tác phương Tây sẽ ra sao ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Normale Supérieure, Lyon, Pháp.

    RFI : Tổng thống Nga Vladimir Putin đến thăm Việt Nam cấp Nhà nước sau chuyến công du Bắc Triều Tiên trong khi ông Putin đang bị Tòa án Hình sự Quốc tế truy nã vì phạm tội ác chiến tranh ở Ukraina. Mục đích chuyến công du Việt Nam của nguyên thủ Nga là gì ? Việt Nam tính toán gì khi tiếp tổng thống Putin ?

    Laurent Gédéon : Đúng vậy, ông Vladimir Putin công du Việt Nam ngày 20/06 theo lời mời của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng, được đưa ra khá gần đây, trong cuộc điện đàm ngày 26/03/2024 với tổng thống Nga. Cho nên chuyến công du phản ánh rõ mong muốn của cả Nga lẫn Việt Nam. Công du Việt Nam không phải là chuyện mới đối với tổng thống Nga vì ông đã tới Việt Nam 4 lần : hai chuyến thăm cấp Nhà nước năm 2001, 2013 và hai lần tham gia thượng đỉnh hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương - APEC tại Đà Nẵng năm 2006 và 2017. Chuyến thăm hôm 20/06 ở cấp Nhà nước, với nghi thức cao nhất, là lần thứ năm ông đến Việt Nam và phải nói là đáng kể, đồng thời cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Nga dành cho Việt Nam.

    Đối với Hà Nội, chuyến công du của tổng thống Putin mang lại nhiều lợi ích : Tăng uy tín quốc tế của Việt Nam ; gửi thông điệp đến Trung Quốc rằng Việt Nam không đơn độc và có thể dựa vào nhiều nhân tố lớn mạnh, kể cả liên quan đến vấn đề Biển Đông ; gửi thông điệp đến Hoa Kỳ ; tăng cường mối quan hệ với Nga. Nghi lễ đón tiếp trang trọng, nồng nhiệt, nhất là việc chính phủ Việt Nam nhấn mạnh đến tính chất đặc biệt của mối quan hệ với Nga cho thấy rằng đối với Hà Nội, cuộc gặp này là cơ hội để nâng cao mối quan hệ với một đất nước mà họ coi là "một trong những đối tác chính trong chính sách đối ngoại của Việt Nam", theo phát biểu của chủ tịch nước Tô Lâm. Về mặt ý nghĩa biểu tượng, các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng muốn cho thấy rằng sự ủng hộ của Liên Xô trong chiến tranh Đông Dương và Cam Bốt vẫn chưa bị lãng quên.

    Đọc thêm : Tổng thống Vladimir Putin chờ đợi gì ở Việt Nam ?

    Dĩ nhiên, phía Nga cũng được lợi vì chuyến công du giúp Matxcơva khẳng định rằng họ không bị cô lập, họ có bạn ở khắp nơi trên thế giới, giúp tăng cường tính chính đáng ngoại giao của Nga, giữ cân bằng với Trung Quốc, đồng thời gửi thông điệp đến Hoa Kỳ rằng nỗ lực của phương Tây nhằm cô lập tổng thống Nga đã thất bại. Do đó, có thể thấy sự hội tụ lợi ích giữa Việt Nam và Nga trong khuôn khổ chuyến công du này.

    Bối cảnh của chuyến công du cũng rất đặc biệt vì có rất nhiều hoạt động ngoại giao. Trước tiên là kỷ niệm 30 năm Hiệp ước về những nguyên tắc cơ bản của quan hệ hữu nghị, được Việt Nam và Nga ký ngày 16/06/1994. Tiếp theo là sắp kỷ niệm 75 năm thiết lập quan hệ ngoại giao song phương (tháng 01/1950). Ngoài ra, Việt Nam nằm trong số 12 nước được mời tham dự đối thoại BRICS với các nước đang phát triển, được tổ chức tại Matxcơva ngày 11/06. Cuối cùng, vào đầu tháng 03, Việt Nam và Nga đã tổ chức đối thoại chiến lược lần thứ 13 về ngoại giao, an ninh-quốc phòng.

    Về mặt địa chiến lược, cần lưu ý là chuyến công du diễn ra trong bối cảnh căng thẳng gia tăng giữa Philippines và Trung Quốc, đặc biệt là vụ va chạm ngày 17/06 giữa thủy thủ hai nước khi tàu của Philippines tiếp viện cho lực lượng đồn trú trên con tàu bị mắc kẹt ở Bãi Cỏ Mây (Second Thomas Shoal).

    RFI : Chuyến thăm của tổng thống Nga Vladimir Putin có những tác động như thế nào đối với Việt Nam ?

    Laurent Gédéon : Chuyến công du này cho thấy rõ mong muốn hợp tác chính thức với những mục tiêu được thể hiện chi tiết rõ ràng. Hai nước tăng cường mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực thương mại, kinh tế, công nghệ, nhân đạo, khoa học, năng lượng, giáo dục, du lịch và văn hóa. Chúng ta cũng thấy tổng thống Putin đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề điện hạt nhân dân sự và khả năng các công ty Nga tham gia vào lĩnh vực này ở Việt Nam.

    Ngoài ra, vấn đề tăng cường đối tác chiến lược giữa hai nước cũng được đặt ra. Thứ nhất về lĩnh vực vũ khí, theo như tôi biết là không được nêu đích danh, nhưng phải nhắc lại rằng Nga là nhà cung cấp vũ khí lớn nhất cho Việt Nam. 90% vũ khí được Hà Nội nhập khẩu từ 1995 đến 2015 là của Nga. Cuộc chiến ở Ukraina giúp Nga quảng cáo một số loại vũ khí với các đối tác, trong đó có Việt Nam.

    Đọc thêm : Nga nướng vũ khí ở Ukraina, Việt Nam lo nguồn cung thiếu hụt

    Tuy nhiên, ở đây chúng ta có thể đặt ra câu hỏi về sự phụ thuộc của Việt Nam, khá là đáng báo động, vào vũ khí Nga nếu nhìn vào bối cảnh tế nhị của cuộc chiến ở Ukraina và sự điều chỉnh thế cân bằng ở Á-Âu, nơi Trung Quốc ngày càng có ảnh hưởng đáng kể. Nga không có hiệp ước phòng thủ chung với Việt Nam, không giống như hiệp ước mà tổng thống Putin vừa tái kích hoạt với Bắc Triều Tiên. Do đó, có thể hỏi liệu Matxcơva có sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam bảo vệ lãnh thổ hay không trong khi Nga cũng phụ thuộc về ngoại giao và công nghệ vào Trung Quốc ? Đây là một câu hỏi rất quan trọng trong bối vũ khí Nga chiếm gần như toàn bộ trong quân đội Việt Nam.

    Tiếp theo là tác động trong lĩnh vực dầu khí khi biết rằng Matxcơva là đối tác ngày càng quan trọng của Việt Nam trong lĩnh vực này. Rất nhiều tập đoàn lớn của Nga như Gazprom chiếm phần lớn hoạt động trong lĩnh vực dầu khí ở Việt Nam. Về mặt kinh tế nói chung, theo số liệu, hợp tác Nga-Việt gia tăng đáng kể, cụ thể trao đổi thương mại song phương đạt 3,63 tỷ đô la năm 2023, tăng 2,3% so với năm trước. Chỉ riêng 5 tháng đầu năm 2024, kim ngạch thương mại giữa Việt Nam và Nga đạt 1,96 tỷ đô la, tăng 51,4% trên một năm. Có rất nhiều nhà đầu tư Nga ở Việt Nam, tham gia vào 186 dự án với tổng số vốn là 984,98 triệu đô la, giúp Nga đứng hàng thứ 28 trong số 145 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Phía Việt Nam đã đầu tư vào 18 dự án ở Nga, với tổng trị giá khoảng 1,63 triệu đô la.

    Cuối cùng về hệ quả chính trị hay ngoại giao, có thể chuyến công du của tổng thống Putin không gây tác động quá lớn về mặt ngoại giao cho Việt Nam.

    RFI : Vậy hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế sẽ bị ảnh hưởng như thế nào khi Hà Nội tiếp một tổng thống gây chiến ở Ukraina từ ba năm nay ?

    Laurent Gédéon : Tôi nghĩ rằng hình ảnh của Việt Nam sẽ ít bị tác động bởi vì Hà Nội khá là kín tiếng về chủ đề Ukraina. Việt Nam vắng mặt trong cuộc bỏ phiếu ngày 02/03/2022 về nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc lên án cuộc xâm lược của Nga ở Ukraina. Sau đó, Việt Nam đã bỏ phiếu chống việc loại Nga khỏi Hội Đồng Nhân Quyền tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ngày 07/04/2022. Gần đây Việt Nam cũng không tham dự hội nghị về hòa bình cho Ukraina, diễn ra ở Thụy Sĩ ngày 15-16/06.

    Tại Hà Nội, tổng thống Putin nhấn mạnh đến việc Nga và Việt Nam có cách nhìn "tương đồng" về tình hình châu Á-Thái Bình Dương. Ông cũng nhấn mạnh đến những nỗ lực của Hà Nội "để bảo vệ một trật tự thế giới cân bằng, dựa trên những nguyên tắc bình đẳng của tất cả các nước và không can thiệp vào chuyện nội bộ của nhau".

    Đọc thêm : Lời mời tổng thống Nga Putin thăm Việt Nam và thế cân bằng khó khăn của Hà Nội

    Dù trong bối cảnh tế nhị như vậy, việc tái khẳng định mối quan hệ Việt-Nga có lẽ không tác động đến hình ảnh của Hà Nội chừng nào nền "ngoại giao cây tre" - đa phương, linh hoạt và thận trọng - vẫn vận hành. Đây là chiến lược tập trung phát triển quan hệ đối tác với nhiều nước, đôi khi thuộc các khối đối lập, mà vẫn giữ được độc lập và lợi ích quốc gia. Chính điều này giúp Việt Nam duy trì thế cân bằng giữa các siêu cường đối thủ : Trung Quốc, Nga và Mỹ. Do đó, Nga là một đối trọng hữu ích để Việt Nam đối phó với Trung Quốc và Hoa Kỳ. Về mặt truyền thông ngoại giao, chuyến thăm của Putin là cơ hội để Hà Nội chứng tỏ rằng chính sách đối ngoại của họ là cân bằng, không thiên vị bất kỳ cường quốc nào.

    Vì vậy tôi cho rằng Việt Nam sẽ chỉ bị ít hệ quả tiêu cực nhưng thu được lợi ích về kinh tế và ngoại giao nhiều hơn.

    RFI : Ngay sau khi ông Putin rời Hà Nội, ông Daniel Kritenbrink, trợ lý ngoại Mỹ phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương đã đến Việt Nam ngày 21/06. Hoa Kỳ và các nước phương Tây sẽ phản ứng ra như thế nào đối với Việt Nam ? Liệu sẽ có hình thức trừng phạt nào đó hay chỉ là những lời chỉ trích ?

    Laurent Gédéon : Việt Nam, giống như Nga, Trung Quốc hoặc Hoa Kỳ, không tham gia Tòa Án Hình Sự Quốc Tế nên không bận tâm đến lệnh bắt của Tòa nhắm vào tổng thống Nga vì bị cáo buộc gây tội ác chiến tranh ở Ukraina. Cần lưu ý là trước chuyến công du Việt Nam, tổng thống Nga đã đến Các Tiểu Vương Quốc Ả Rập Thống Nhất ngày 06/12/2023 và các nước phương Tây chỉ đưa ra những phát biểu phản đối.

    Đọc thêm : Nga xâm lược Ukraina và “Ngoại giao cây tre” của Việt Nam

    Hoa Kỳ đã phản ứng, chủ yếu thông qua phát biểu của người phát ngôn Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội. Ông tuyên bố : "Không một nước nào nên trao cho ông Putin một diễn đàn để cổ vũ cuộc chiến xâm lược của ông ta và cho phép ông tác bình thường hóa những tội ác". Ông cũng nói thêm rằng "nếu ông Putin có thể tự do đi lại, điều đó có thể sẽ khiến những vụ vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế của Nga trở thành chuyện bình thường". Cho nên Mỹ rất chú ý đến những gì đang diễn ra ở Việt Nam.

    Tổng thống Mỹ Joe Biden công du Việt Nam ngày 10-11/09/2023 và hai bên đã ký thỏa thuận "Đối tác chiến lược toàn diện", mức cao nhất của Hà Nội. Sau đó, chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng đến thăm Việt Nam ngày 12-13/12/2023. Có thể thấy Việt Nam rất được "chú ý" vì có tầm quan trọng địa-chính trị ở trong vùng. Trong bối cảnh đó, ít có khả năng Hoa Kỳ, cũng như Liên Hiệp Châu Âu hay những nước phương Tây khác, vượt qua ngưỡng phát biểu bày tỏ bất bình đối với Hà Nội sau chuyến công du của nguyên thủ Nga.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nhà nghiên cứu Laurent Gédéon, giảng viên Trường Normale Supérieure, Lyon.

    (1) "Viết tiếp chương mới trong lịch sử quan hệ hữu nghị Việt Nam-Liên bang Nga", Nhân Dân, 06/2024.

    (2) (3) Thayer Consultancy, Background Brief : Russia’s Putin to Visit Vietnam: Scene Setter – 4, June 17, 2024.

  • Việt Nam có 3.200 km bờ biển, phải đối mặt thường xuyên với giông bão, lũ lụt, sạt lở. Khoảng 30% diện tích đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị nhấn chìm nếu nước biển dâng khoảng 50 cm. Dân số dự kiến đạt đến 120 triệu người từ nay đến 2030 trong khi nền kinh tế vẫn phát thải khí CO2 vì 42% sản lượng điện vẫn phụ thuộc vào than đá.

    Là một trong 5 nước không phải là đảo quốc bị tác động mạnh vì biến đổi khí hậu, Việt Nam đã đặt ra nhiều tham vọng lớn để đạt mục tiêu trung hòa khí phát thải cho đến năm 2050. Trong hành trình này, Pháp khẳng định sát cánh với Việt Nam.

    Thông qua nhiều dự án tài trợ trực tiếp hoặc trong khuôn khổ các thỏa thuận với các đối tác quốc tế (JETP của G7, Liên Hiệp Châu Âu, Na Uy và Đan Mạch hoặc chiến lược GlobalGateway của Liên Hiệp châu Âu…), chính phủ Pháp, cũng như Cơ quan Phát triển Pháp (Agence Français de Développement, AFD), thúc đẩy phát triển bền vững ở Việt Nam, giúp Việt Nam khắc phục một số hậu quả do biến đổi khí hậu gây ra.

    Để hiểu hơn về các dự án đang và sắp được triển khai, đại sứ Pháp tại Việt Nam Olivier Brochet đã trả lời một số câu hỏi của RFI Tiếng Việt ngày 13/06/2024.

    RFI : Hai dự án tài trợ tài chính của Liên Hiệp Châu Âu và của Pháp nhằm đầu đối phó với tác động của biến đổi khí hậu đã được thông báo vào tháng Ba vừa qua. Dự án thứ nhất ở thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam và dự án thứ hai ở thành phố Đông Hà, tỉnh quảng Trị. Xin Đại sứ cho biết tình hình khẩn cấp đến mức độ nào để giải thích cho việc lựa chọn hai địa phương này ?

    Đại sứ Olivier Brochet : Trước tiên cần phải nhắc lại rằng Cơ quan Phát triển Pháp - AFD tại Việt Nam tập trung vào các dự án về khí hậu. Có nghĩa là những nguồn tài chính của Cơ quan Phát triển Pháp là nhằm hỗ trợ quá trình chuyển đổi năng lượng, và chủ yếu là vì lợi ích của ngành điện Việt Nam, của Tập đoàn Điện lực Việt Nam, hoặc nhằm để thích ứng với biến đổi khí hậu và trường hợp này chủ yếu có lợi cho các tỉnh.

    Đọc thêm : Cơ quan AFD của Pháp hỗ trợ Việt Nam thực hiện cam kết khí hậu

    Trong trường hợp thứ hai này, với hai dự án nêu trên là do bộ Kế hoạch Đầu tư Việt Nam đã đề nghị Cơ quan Phát triển Pháp đầu tư tài chính. Dự án ở Hội An liên quan đến xói lở bờ biển đang diễn ra rất nhanh, cấp bách. Cho nên dự án tài trợ đó nhằm mục đích hạn chế xói mòn bờ biển, nhất là bảo vệ các bãi biển trong khu khách sạn ven biển Hội An. Về dự án ở Đông Hà, đó là do thành phố này bị lũ lụt thường xuyên, cho nên cần phải hỗ trợ nỗ lực phòng chống lũ lụt của thành phố. Công trình được tiến hành ở lưu vực thượng nguồn để cố gắng tránh các trận lũ lụt thường xuyên ở các khu vực trung tâm.

    Tôi điểm sơ qua về nguồn gốc của hai dự án nhưng cả hai cùng nằm trong chính sách chung do Pháp, đặc biệt là do cơ quan AFD tại Việt Nam, tiến hành vì lợi ích của các tỉnh và dĩ nhiên là có dự hỗ trợ của Liên Hiệp Châu Âu, cũng như Quỹ WARM (Water and Natural Resources Management Facility - Quỹ Quản lý Nước và Tài nguyên Thiên nhiên ứng phó với biến đổi khí hậu ở Việt Nam) nhằm mục đích hỗ trợ tất cả các dự án tăng cường năng lực đối phó với biến đổi khí hậu.

    RFI : Việt Nam nằm trong số 5 nước không phải là đảo dễ bị tác động nhất trước những hệ quả của biến đổi khí hậu. Ở Việt Nam, còn có những địa phương nào cần sự hỗ trợ và kinh nghiệm chuyên ngành của Pháp và Liên Hiệp Châu Âu ?

    Đại sứ Olivier Brochet : Tôi nghĩ, có thể nói là tất cả các tỉnh ở Việt Nam đều dễ bị tác động do hệ quả của biến đổi khí hậu. Như chị nhắc ở trên Việt Nam là một trong số 5 nước không phải là đảo bị tác động nặng nề và sẽ còn bị như vậy. Có thể thấy việc này qua các trận ngập lụt, xói lở bờ biển, nước mặn xâm lấn hoặc ngược lại là tình trạng hạn hán nghiêm trọng ở nhiều vùng, cho nên cần phải can thiệp ở khắp nơi.

    Đọc thêm : Pháp, Mỹ hỗ trợ Việt Nam chống biến đổi khí hậu

    Hiện nay, Cơ quan Phát triển Pháp có dự án tại khoảng 15 tỉnh ở Việt Nam theo đề nghị của UBND những tỉnh mà chúng tôi duy trì mối quan hệ, đôi khi có từ lâu, và thực hiện chung nhiều dự án trước đó. Chúng ta mới nêu hai ví dụ nhưng còn nhiều dự án khác nữa. Tôi muốn nhấn mạnh đặc biệt đến ba dự án mà Cơ quan Phát triển Pháp điều phối ở đồng bằng sông Cửu Long. Đây là nơi rất dễ bị tác động trong tương lai vì 50% diện tích đồng bằng sông Cửu Long có thể sẽ bị chìm dưới nước từ nay đến cuối thế kỷ vì nhiều lý do và đang chịu nhiều vấn đề rất trầm trọng. Ví dụ cơ quan AFD can thiệp ở Cà Mau với một dự án cũng liên quan đến xói lở bờ biển để hạn chế hiện tượng này. Còn dự án thứ hai là ở Hậu Giang về xử lý các vụ ngập lụt trong thành phố. Cả hai dự án đã được phê chuẩn và sắp được ký duyệt. Còn một dự án khác ở Vĩnh Long nhằm chống xâm nhập mặn và củng cố bờ sông.

    RFI : Đại sứ nêu ít nhất 5 dự án ở trên, liệu cơ quan AFD có giám sát, hỗ trợ hoặc chuyển giao kinh nghiệm cho đối tác Việt Nam để các dự án này bền vững sau khi đi vào hoạt động trong tương lai không ?

    Đại sứ Olivier Brochet : Có, tất cả những dự án này trước đó đều được thảo luận khá kỹ lưỡng về kỹ thuật để xác định chính xác những nhu cầu về thiết bị, về vật liệu, về công trình, cũng như nhu cầu về hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo nhân viên - những người chịu trách nhiệm quản lý những vấn đề này. Và Quỹ Quản lý Nước và Tài nguyên Thiên nhiên - WARM do Liên Hiệp Châu Âu triển khai rất hữu ích cho việc này vì cho phép tài trợ, thông qua hình thức trao tặng, những chương trình hỗ trợ kỹ thuật này. AFD được Quỹ WARM tài trợ khoảng 2 triệu euro hàng năm cho tất cả các dự án của cơ quan nhằm hỗ trợ việc chuyển giao công nghệ, hỗ trợ kỹ thuật cho cho các UBND tỉnh.

    RFI : Tại hội nghị khí hậu COP 26, Việt Nam đã thông báo nhiều mục tiêu đầy tham vọng. Pháp và nhóm G7 sẵn sàng giúp Việt Nam thực hiện thông qua chương trình Thỏa thuận Đối tác Chuyển dịch Năng lượng Bình đẳng - JETP. Vậy đâu là những hướng đi để đạt được những mục tiêu đó ?

    Đại sứ Olivier Brochet : Đúng vậy, Việt Nam đã dũng cảm cam kết và quyết tâm đối phó với vấn đề nhiệt độ nóng lên trên toàn cầu. Tôi xin nhắc lại những cam kết được đưa ra tại COP 26, đó là trung hòa khí CO2 vào năm 2050, thoát khỏi than đá vào thập niên 2040, giảm khí metan mà chúng ta biết ở Việt Nam là rất lớn, đặc biệt do trồng lúa. Đó là những cam kết đầy tham vọng.

    Mong muốn của chúng tôi, và tôi cũng cho đó là nghĩa vụ của chúng tôi, là hỗ trợ Việt Nam thực hiện những cam kết được đưa ra. Chính vì thế Pháp đã cam kết với những đối tác khác trong khuôn khổ Thỏa thuận JETP để mang lại hỗ trợ cụ thể cho Việt Nam. Cũng vì thế vào tháng 06/2023, Pháp đã đề xuất Hiệp ước Paris vì Con người và Hành tinh (Pacte de Paris pour les peuples et la planète, 4P). Việt Nam cũng tham gia và nằm trong số 54 nước ký kết. Ý nghĩa của Hiệp ước này là những nước đang phát triển không phải lựa chọn giữa phát triển vì người dân và chống biến đổi khí hậu. Do đó, các nước giàu nhất cũng phải tham gia hỗ trợ những nỗ lực mà các nước phương Nam đã kiên quyết đưa ra. Có thể thấy Pháp đã đưa ra những cam kết chính trị rất rõ ràng, rất mạnh mẽ và chúng tôi đang thực hiện những cam kết đó ở đây.

    Tôi vừa nêu ở trên về Thỏa thuận JETP bởi vì Pháp, cùng với các đối tác trong G7, đã cam kết giải ngân 500 triệu euro trong vòng 5 năm và nhiều dự án đầu tiên sắp được thực hiện trong ngân sách này. Một trong những dự án mà tôi nghĩ tới trước tiên là dự án xây thêm một hồ thủy điện cho nhà máy thủy điện Bắc Hà giúp trữ nước, trữ nguồn năng lượng dư thừa từ pin mặt trời trong ngày để sau đó sử dụng nguồn năng lượng này vận hành tua bin nước trong hồ chứa vào buổi tối khi nhu cầu điện tăng cao. Đó là một ví dụ trong số những dự án mà chúng tôi sẽ cấp tín dụng và hiện giờ đang trong giai đoạn đánh giá, định hình.

    Ngoài ra phải kể đến sự hỗ trợ lớn cho Tập đoàn Điện lực Việt Nam để cải thiện mạng lưới điện bởi vì đây là một trong những vấn đề lớn mà Việt Nam đang phải đối mặt. Một phần lớn sản lượng điện, đặc biệt là điện tái tạo, được sản xuất ở miền Nam trong khi nhu cầu ở miền Bắc cực kỳ lớn và không được đáp ứng đầy đủ. Do đó phải cải thiện mạng lưới điện giữa miền Bắc và miền Nam để có thể phát triển toàn diện ngành sản xuất năng lượng tái tạo. Và đó cũng là lĩnh vực chúng tôi đang hợp tác với Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

    Đọc thêm :Kinh nghiệm xây metro của Pháp trong tuyến Nhổn-Ga Hà Nội

    Ngoài tài trợ công, Thỏa thuận JETP cũng có những cam kết của các doanh nghiệp và công ty tư nhân để đáp ứng những nhu cầu, trông đợi của Việt Nam. Trong lĩnh vực này, các doanh nghiệp Pháp đã có mặt và tiếp tục cam kết. Tôi chỉ nêu ví dụ của EDF Renewables đang có dự án quan trọng về các loại năng lượng tái tạo ở Việt Nam. Trong tương lai có thể còn có nhiều dự án khác mà chúng tôi đã bắt đầu suy tính tùy theo chính sách của phía Việt Nam. Pháp có thể mang đến những giải pháp về phát triển lĩnh vực hydro và có thể một ngày nào đó nếu Việt Nam tính đến vấn đề điện hạt nhân.

    Trên đây là một chút phác họa về những dự án liên quan đến năng lượng nhưng cũng còn nhiều dự án khác để hướng tới phát triển nền kinh tế ít phát thải cacbon, như dự án di chuyển đô thị, ví dụ trường hợp tài trợ cho tàu điện ngầm ở Hà Nội với tuyến tàu số 3. Hoặc trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, chúng tôi có rất nhiều chương trình nghiên cứu được thực hiện với các đối tác Việt Nam để cải thiện và giảm khí thải cacbon nông nghiệp.

    Tiếp theo, chúng tôi làm việc với chính quyền Việt Nam để hỗ trợ triển khai công cụ lập mô hình kinh tế - việc vô cùng cần thiết. Và đây là trường hợp của dự án GEMMES, đã được thực hiện từ nhiều năm qua và giúp chính quyền đưa ra biện pháp, xây dựng chiến lược kinh tế để thích ứng tốt hơn trước những tác động của tình trạng nóng lên toàn cầu, cũng những hệ quả của hiện tượng này. Trên đây là một vài ví dụ về chính sách được Pháp cam kết đồng hành với Việt Nam.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn đại sứ Pháp tại Việt Nam Olivier Brochet.

  • “Tứ Trụ” Việt Nam tạm ổn sau những bất ngờ liên tiếp về nhân sự, đặc biệt với việc hai chủ tịch nước và một chủ tịch Quốc Hội lần lượt từ chức. Giới quan sát quốc tế lưu ý là những xáo trộn trong thượng tầng lãnh đạo không phải là chuyện lạ trước mỗi kỳ Đại Hội đảng nhưng lần này là “chuyện chưa từng có trong lịch sử”, công khai hơn và chưa có dấu hiệu chấm dứt vì còn 19 tháng nữa mới tới Đại Hội đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XIV với việc bầu tổng bí thư mới.

    Ai sẽ thay thế ông Nguyễn Phú Trọng trong cương vị tổng bí thư đảng ? Câu hỏi này được truyền thông quốc tế quan tâm đặc biệt kể từ khi Quốc Hội phê chuẩn thay đổi nhân sự vào tháng 05/2024 : ông Trần Thanh Mẫn làm chủ tịch Quốc Hội, bộ trưởng Công An Tô Lâm trở thành chủ tịch nước, bà Trương Thị Mai được cho thôi làm đại biểu Quốc Hội và các chức ủy viên bộ Chính Trị, ủy viên ban Chấp hành Trung ương Đảng. Bà Mai là ủy viên bộ Chính Trị thứ 6 phải từ chức từ năm 2022 trong khuôn khổ chiến dịch chống tham nhũng.

    Tiêu chí ứng viên : Hoàn thành ít nhất một nhiệm kỳ trong bộ Chính Trị

    Bộ Chính Trị hiện nay có 16 ủy viên, thay vì 18 như đầu Đại Hội lần thứ XIII của Đảng năm 2019, với 4 ủy viên mới được bầu bổ sung trong tháng 05/2024. Trong số này chỉ có 12 ủy viên có thể đáp ứng được yêu cầu tiên quyết là hoàn thành ít nhất một nhiệm kỳ 5 năm trong bộ Chính Trị để được đề cử làm tổng bí thư.

    Trong số này, hai vị trí trong “Tứ Trụ” được đề cấp nhiều nhất, gồm chủ tịch nước Tô Lâm, thủ tướng Phạm Minh Chính. Cả hai “ứng viên nổi bật” này đều sẽ quá tuổi nghỉ hưu theo quy định là 65 khi diễn ra Đại Hội toàn quốc lần thứ XIV của Đảng, dự kiến vào tháng 1/2026 nên sẽ cần được coi là “trường hợp đặc biệt”.

    Ông Tô Lâm được các nhà quan sát về chính trị Việt Nam cho là “đang trên đường hướng tới chiếc ghế tổng bí thư”, đặc biệt là vị trí bộ trưởng Công An đã được giao cho cộng sự thân tín của ông là thứ trưởng Lương Tam Quang, theo ghi nhận của trang The Diplomat ngày 07/06. Nhà nghiên cứu Nhật Bản Futaba Ishizuka, Viện Kinh tế Phát triển JETRO, lưu ý trên trang Nikkei ngày 22/05 : “Việc ông Tô Lâm duy trì ảnh hưởng trong bộ Công An sẽ là một trong những yếu tố then chốt quyết định liệu ông có thể trở thành tổng bí thư hay không”.

    Trong loạt bài tổng hợp về “Sự thay đổi lãnh đạo ở Việt Nam” (Leadership change in Vietnam), giáo sư danh dự Carl Thayer, Đại học New South Wales, cho rằng “việc ông Tô Lâm được bầu làm chủ tịch nước có thể được hiểu theo hai cách : ông được đưa lên vị trí chủ yếu mang tính hình thức và giữ chức đến cuối nhiệm kỳ vào tháng 05/2026. Hoặc chức chủ tịch nước có thể được coi là bàn đạp cho vị trí tổng bí thư”. Tuy nhiên, ông Tô Lâm “phải vượt qua được 5 cửa ải” :

    “Thứ nhất, thông thường tổng bí thư hiện tại đề cử người kế nhiệm. Tiểu ban nhân sự chuẩn bị cho Đại hội XIV, hiện do tổng bí thư Trọng đứng đầu, phải cân nhắc và phê chuẩn ông Tô Lâm làm ứng viên. Ông cũng phải được coi là “trường hợp đặc biệt” vì sẽ quá 65 tuổi theo quy định nghỉ hưu.

    Chặng thứ hai, Ban Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTƯ) hiện nay phải phê chuẩn đề xuất của tiểu ban nhân sự hoặc đạt được đồng thuận về người kế nhiệm. Tiến trình này thường kéo theo nhiều cuộc thăm dò ngẫu nhiên trước khi bỏ phiếu chính thức. Ví dụ, năm 2020, tổng bí thư Trọng đề cử ông Trần Quốc Vượng nhưng ông Vượng đã không nhận được đa số phiếu và cuối cùng là đạt được đồng thuận để ông Trọng tiếp tục nhiệm kỳ thứ ba. Tóm lại, ông Tô Lâm có hai hướng để đi đến thành công ở chặng hai. Hoặc việc đề cử ông được chấp nhận hoặc ông trở thành một ứng viên được đồng thuận.

    Chặng thứ ba, ông Tô Lâm phải nhận được đa số phiếu từ hơn 1.500 đại biểu Đại hội XIV để được bầu vào BCHTƯ mới. Chặng thứ tư, BCHTƯ mới phải bầu ông Tô Lâm vào bộ Chính Trị. Và khi lựa chọn xong bộ Chính Trị, BCHTƯ mới phải bầu ông Tô Lâm làm tổng bí thư”. (1)

    Tuy nhiên, vẫn theo giáo sư Carl Thayer, hành trình sẽ không hoàn toàn thuận lợi cho ông Tô Lâm vì ông không được ủng hộ cao, bằng chứng là trong cuộc bỏ phiếu đối với 44 chức danh do Quốc Hội bầu và phê chuẩn năm 2023, ông Lâm có số phiếu “tín nhiệm cao” khá thấp. Đảng Cộng sản Việt Nam ưu tiên đồng thuận nội bộ, trong khi ông Lâm lại là một ứng viên gây chia rẽ.

    Ứng viên nặng ký thứ hai cho chức tổng bí thư đảng là thủ tướng Phạm Minh Chính, một trong “Tứ Trụ” hiện vẫn đứng vững. Giáo sư Zachary Abuza, trường National War College (Mỹ), nhận định trên trang Al Jazeera ngày 22/05 rằng sau khi rời ghế bộ trưởng Công An, ông Lâm “khó có thể hạ được ông Phạm Minh Chính”.

    Một nhân vật mới cũng gây chú ý là đại tướng Lương Cường, vừa được bổ nhiệm tham gia Ban Bí thư và chức vụ Thường trực Ban Bí thư. Dường như ông Tô Lâm đã không gây được sức ép để trợ lý thân cận của ông là thượng tướng Nguyễn Duy Ngọc thay thế vị trí của bà Trương Thị Mai. Theo giáo sư Carl Thayer, việc bổ nhiệm tướng Lương Cường “nên được xem như một dấu hiệu cho thấy ảnh hưởng của một liên minh chống lại sự trỗi dậy của ông Tô Lâm hơn là một dấu hiệu cho thấy sức mạnh ngày càng tăng của Quân đội Nhân dân Việt Nam”.

    “Ông Lương Cường là ủy viên BCHTƯ từ Đại hội XI. Ông đã hoàn thành nhiệm kỳ đầu ở bộ Chính Trị, đây là điều kiện tiên quyết cho vị trí tổng bí thư. Ông Cường sinh năm 1957 ở tỉnh Phú Thọ, miền bắc Việt Nam, cũng là một lợi thế chính trị. Tuy nhiên, ông sẽ 69 tuổi khi diễn ra Đại hội XIV, có nghĩa là nhiều hơn 4 tuổi theo quy định nghỉ hưu. Cho nên ông cũng cần được coi là “trường hợp đặc biệt”.

    Về lý thuyết, ông Lương Cường có nhiều cơ hội trở thành tổng bí thư tương lai. Nhiều tin đồn cho rằng quân đội đang gây sức ép để thanh tra tập đoàn Xuân Cầu (CTCP Xuân Cầu Holdings với công ty TNHH Đầu tư Địa ốc Thành phố (CityLand)) do em trai của ông Tô Lâm điều hành”. (2)

    Tiến sĩ Lê Hồng Hiệp, nghiên cứu viên cao cấp Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (ISEAS-Yosof Ishak Institute, Singapore), cũng cho rằng tướng Lương Cường có thể là một một ứng viên đáng chú ý, nhất là khi ông được “lịch sử ủng hộ”, ý muốn nói đến trường hợp ông Lê Khả Phiêu nhậm chức tổng bí thư từ vị trí thường trực bộ Chính Trị - tương đương với vị trí thường trực ban bí thư hiện nay. Trong khi đó, Việt Nam chưa từng có tổng bí thư nào xuất thân từ ngành công an.

    Ngoài ra, theo giáo sư Carl Thayer, căn cứ vào việc bổ nhiệm nhân sự mới đây, có thể có thêm hai ứng viên tiềm năng khác là Trần Cẩm Tú và Trần Thanh Mẫn.

    “Cả hai sẽ chưa đến tuổi nghỉ hưu theo quy định và đều có một nhiệm kỳ 5 năm bắt buộc ở bộ Chính Trị. Ông Mẫn vừa được bầu làm chủ tịch Quốc Hội. Vị trí này từng là bàn đạp cho cả hai nhà lãnh đạo đảng là Nông Đức Mạnh và Nguyễn Phú Trọng. Ông Tú, thuộc nhánh Nghệ An, là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương và đóng vai trò quan trọng trong chiến dịch chống tham nhũng”. (3)

    Tuy nhiên, giáo sư Carl Thayer cũng lưu ý đến một tiêu chí “ngầm” khác là nguyên quán của ứng viên cho chức tổng bí thư, thường là người miền Bắc.

    Tổng bí thư đương nhiệm đề cử ứng viên thay thế

    Thông thường, tổng bí thư đương nhiệm là người đề cử tên người kế nhiệm. Giám đốc nghiên cứu Benoit de Tréglodé, trường Quân sự Pháp, nhận định với RFI Tiếng Việt rằng có lẽ ông Trọng chưa tìm ra được người kế nhiệm vì đích thân ông làm trưởng Tiểu ban Nhân sự Đại Hội XIV. Tuy nhiên, tổng bí thư không phải là người toàn quyền quyết định vì đảng Cộng Sản Việt Nam hoạt động dựa trên nguyên tắc tập thể. Thêm vào đó, việc ông Thưởng bị buộc từ chức chủ tịch nước, trong khi ông được coi là người được tổng bí thư che chở, cho thấy ảnh hưởng của ông Trọng đã bị suy giảm phần nào. Giáo sư Carl Thayer nhận định :

    “Cần nhớ lại rằng ông Nguyễn Phú Trọng dự Đại hội đảng XIII vào đầu năm 2021 và đề cử ông Trần Quốc Vượng làm người kế nhiệm. Nhưng trong cuộc họp của Ban chấp hành Trung ương tháng 11/2020, ông Vượng đã không hội đủ được đa số ủng hộ và đã bỏ cuộc. Do đó, ông Trọng không phải là người có quyền lực không thể tranh cãi trong hệ thống chính trị Việt Nam.

    Tại Hội nghị Trung ương 8 vào tháng 10 năm ngoái (2023), kế hoạch cho Đại hội đảng lần tới đã được triển khai. Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đứng đầu tiểu ban nhân sự, phụ trách lựa chọn và bổ nhiệm những ứng viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng mới sẽ được đưa ra bỏ phiếu tại Đại hội XIV vào đầu năm 2026. Ông Trọng đã chịu nhiều phản ứng tiêu cực vì cách tiếp cận mang tính độc đoán hoặc thiếu đồng thuận.

    Vấn đề sức khỏe của ông hiện nay cũng đánh dấu chấm dứt thời kỳ giữ chức tổng bí thư của ông. Những người được lợi hoặc những người đã tận sử dụng chiến dịch chống tham nhũng của ông Trọng, hiện rất chú ý đến việc duy trì ảnh hưởng của họ trong những tháng tới. Bàn tay của ông Trọng suy yếu vì ông Thưởng phải từ chức. Nếu ông Trọng muốn bảo vệ di sản chống tham nhũng và xây dựng đảng, từ giờ ông sẽ phải mặc cả với những “nhóm lợi ích” khác”. (4)

    Những nỗ lực chống tham nhũng của tổng bí thư Trọng đáng được hoan nghênh nhưng giáo sư Carl Thayer cũng cho rằng ông Trọng phải cáng đáng trách nhiệm trong việc giám sát tiến trình lựa chọn nhà lãnh đạo sau này bị phát hiện là “giống như những trái táo thối”. Việc ông đứng đầu tiểu ban nhân sự cũng có thể được hiểu là ông muốn chuộc lỗi để lựa chọn khắt khe ứng viên cho các vị trí lãnh đạo sắp tới. Gần 20 tháng trước kỳ Đại Hội có thể được coi là giai đoạn hỗn loạn nếu ông Tô Lâm tìm cách lãnh đạo Đảng nhưng lại bị những người không muốn ông thăng tiến phản đối. Cuộc đấu tranh nội bộ chưa có hồi kết, rất có thể sẽ tiếp tục cho tới Đại Hội lần thứ XIV của Đảng.

    *****

    (1) Background Brief (Tóm tắt tình hình), Thayer Consultancy, ngày 19/05/2024.

    (2) Background Brief, ngày 20/05/2024.

    (3) Background Brief, ngày 20/05/2024.

    (4) Background Brief, ngày 21/05/2024.

  • Mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên được thúc đẩy mạnh mẽ trong giai đoạn cuối năm 2018 đến đầu 2019 với đỉnh điểm là chuyến công du Hà Nội của lãnh đạo Kim Jong Un và họp thượng đỉnh với tổng thống Mỹ Donald Trump. Việt Nam thường xuyên được nhắc đến như một điển mẫu về mở cửa để Bình Nhưỡng có thể hướng theo. Tuy nhiên, trên phương diện quân sự và công nghiệp quốc phòng, Bắc Triều Tiên bỏ xa Việt Nam.

    Năm 2023, Hà Nội không nhập khẩu vũ khí dù có ngân sách mua sắm hàng năm khoảng 1 tỉ đô la. Nga, nguồn cung lớn nhất của Việt Nam, đang vướng vào chiến tranh Ukraina và bị cấm vận. Israel, một nhà cung cấp khác, dù không bán thiết bị quân sự cho Việt Nam trong những năm gần đây, cũng đang phải tập trung khí tài đối phó với lực lượng Hamas ở dải Gaza. Dù thực hiện chính sách đa dạng hóa nguồn cung vũ khí nhưng dường như Việt Nam gặp trở ngại trong đàm phán với các đối tác mới. Trong khi đó, ngành công nghiệp quốc phòng nội địa mới chỉ sản xuất được những loại vũ khí cơ bản, chưa đủ trình độ để sản xuất các loại khí tài cần công nghệ lõi.

    Những thành tựu vượt bậc về quân sự và công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên liệu có phải là một mô hình để Việt Nam theo đuổi ? Bình Nhưỡng sẵn sàng hy sinh kinh tế để củng cố quốc phòng. Trong khi Việt Nam không có chủ trương như vậy. Trên đây là một trong số những nhận định của nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải, Đại Học New South Wales, Úc, khi trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt.

    RFI : Việt Nam từ lâu được đề cập là nước hỗ trợ lương thực cho Bắc Triều Tiên, nhưng về mặt quốc phòng và công nghiệp quân sự, Bắc Triều Tiên dường như là mô hình để Việt Nam học hỏi ?

    Nguyễn Thế Phương : Nhận định này có mặt đúng nhưng có mặt không đúng lắm, theo quan điểm cá nhân của tôi. Quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên sẽ phải xuất phát từ nhu cầu của cả hai bên : Việt Nam cần gì ? Và Bắc Triều Tiên cần gì ? Thực tế mà nói, mối quan hệ Việt Nam - Bắc Triều Tiên không thực sự suôn sẻ như những gì báo chí đưa ra, từ lịch sử cho tới nay, có nhiều khúc mắc và khúc khuỷu lắm. Đặc biệt khi mà Bắc Triều Tiên có một thể chế tương đối là toàn trị hơn Việt Nam.

    Điểm thứ hai, mô hình công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên đáng học hỏi nhưng phải xem là cái mô hình đó được xây dựng dựa trên sự đánh đổi nào. Ở đây, Bắc Triều Tiên đánh đổi kinh tế với quốc phòng, hy sinh toàn bộ thiết chế chính trị của họ và tập trung mọi nguồn lực vào quốc phòng. Và rõ ràng sự đánh đổi ở đây, mọi người đều biết là thực trạng kinh tế Bắc Triều Tiên như thế nào. Và Việt Nam rõ ràng không thể áp dụng một cách máy móc tư duy dồn toàn bộ nguồn lực quốc gia vào quốc phòng được. Rõ ràng là khi dồn toàn bộ tiền cho quốc phòng thì chắc chắn sẽ phải đạt được một cái thành tựu nào đó, không đạt được thành tựu thì mới là có vấn đề.

    Nhưng mô hình Việt Nam không phải như vậy. Việt Nam không phải là một mô hình toàn trị và coi quốc phòng như là một nền tảng để quản lý quốc gia. Còn Bắc Triều Tiên, vì lịch sử, vì vấn đề địa lý, tư duy, chính trị quốc tế nên họ đã lựa chọn đặt quân đội trên hết. Và chính sách « tiên quân » có từ thời Kim Chính Nhật (Kim Jong Il) cho tới bây giờ là « song tiến » của Kim Jong Un, tức là vừa kinh tế vừa quốc phòng nhưng thực ra quốc phòng vẫn nổi trội hơn.

    Mỗi một mô hình có điểm mạnh và điểm yếu và có vấn đề là họ hy sinh cái gì để họ đạt được mục đích. Việt Nam hiện nay không thể đi theo mô hình như vậy được, mà mô hình của Việt Nam là độc nhất, chỉ phù hợp với đặc trưng kinh tế, xã hội chính trị và quan hệ quốc tế của Việt Nam ở thời điểm hiện tại khi mà nguồn lực của Việt Nam phải được dành cho phát triển kinh tế và phát triển xã hội chứ không chỉ dành hoàn toàn cho cái gọi là « phát triển quốc phòng » được.

    Nhưng nói như thế không phải là Việt Nam không có những học hỏi nhất định. Việt Nam vẫn sẽ có một số học hỏi nhất định về trao đổi đoàn, về mô hình công nghiệp quốc phòng của Bắc Triều Tiên. Nhưng thực tế mà nói, bởi vì mô hình khác nhau, ưu tiên khác nhau, nên theo cá nhân tôi, thì sự học hỏi đó không cao. Bởi mô hình của Việt Nam hiện tại, đặc biệt là công nghiệp quốc phòng, Việt Nam học hỏi từ hai nước là chủ yếu : Trung Quốc và Nga. Đó là các mô hình lưỡng dụng, theo kiểu tư nhân tham gia vô mô hình đó và toàn bộ « tổ hợp công nghiệp quốc phòng » được đặt trong một mô hình kinh tế thị trường. Bắc Triều Tiên không có nền kinh tế thị trường đó.

    Cho nên từ Bắc Triều Tiên có thể học hỏi việc họ phát triển cụ thể ở một số loại vũ khí, khí tài, ví dụ như là quá trình họ phát triển tàu ngầm. Việt Nam hiện nay đang cố gắng xây dựng một hạm đội tàu ngầm từ lớn tới nhỏ, trong đó mô hình xây dựng tàu ngầm mini là mô hình của Bắc Triều Tiên hoặc là một số kỹ thuật hoặc là một số loại vũ khí, ví dụ các loại tên lửa mang tính chiến lược thì Việt Nam cũng kế thừa được kinh nghiệm phát triển tên lửa của Bắc Triều Tiên, tất nhiên là từ rất lâu rồi, bây giờ thì không có chuyện đó bởi vì có liên quan đến cấm vận. Nhưng rõ ràng là sẽ có thể học hỏi, nhưng cái sự học hỏi đó nói chỉ mang tính cục bộ và hạn chế rất nhiều bởi vì về mặt thiết kế mô hình kinh tế chính trị, mô hình quản trị quốc gia thì Việt Nam và Bắc Triều Tiên hoàn toàn khác nhau.

    RFI : Vũ khí hệ Nga chiếm khoảng 80% trong kho vũ khí Việt Nam. Năm 2023, Việt Nam không mua được linh kiện hoặc vũ khí từ Nga do Matxcơva bị cấm vận. Từ cuối năm ngoái, Bình Nhưỡng và Nga thắt chặt quan hệ, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng. Bắc Triều Tiên được cho là sản xuất vũ khí cho Nga và dường như được Nga chuyển giao công nghệ. Liệu Bắc Triều Tiên, dù vẫn bị cấm vận, có trở thành một kênh trung gian cho Việt Nam tiếp cận công nghệ vũ khí của Nga ?

    Nguyễn Thế Phương : Điều này ở thời điểm hiện tại là khó có khả năng xảy ra bởi vì liên quan rất nhiều đến việc cả Nga và Bắc Triều Tiên bị cấm vận. Do đó việc Việt Nam có một mối quan hệ nào đó với Bắc Triều Tiên và với Nga có liên quan đến vũ khí là vấn đề hết sức nhạy cảm và sẽ tác động đến uy tín quốc tế của Việt Nam, đặc biệt là ở Liên Hiệp Quốc. Cho nên khả năng Việt Nam tiếp cận vũ khí hay linh kiện vũ khí của Nga thông qua Bắc Triều Tiên là khá thấp. Đó là lý do thứ nhất, liên quan đến uy tín quốc tế, tới cấm vận.

    Lý do thứ hai là không nhất thiết phải thông qua Nga mới có các linh kiện của Nga. Bởi vì hiện nay, Việt Nam có mối quan hệ an ninh quốc phòng khá tốt đẹp với những quốc gia cũng sử dụng linh kiện của Nga và Việt Nam hoàn toàn có thể mua lại những linh kiện thông qua các quốc gia đó. Ví dụ Ấn Độ là một trong những quốc gia có ngành công nghiệp quốc phòng cũng như quân đội sử dụng vũ khí của cả hai hệ : Nga và Liên Xô trước đây và của cả phương Tây và Mỹ. Do đó, với quy mô quân đội hơn 1 triệu người thì vũ khí cũng như phụ tùng linh kiện vũ khí của Nga trong kho của quân đội Ấn Độ không phải là thiếu. Và ngoài Ấn Độ còn có các quốc gia Đông Âu.

    Tiếp theo, Nga cũng đã chuyển giao giấy phép một số loại kinh kiện phụ tùng cho Ấn Độ, có nghĩa là cùng một loại linh kiện phụ tùng đó, thay vì Nga sản xuất thì Ấn Độ sản xuất. Việt Nam hoàn toàn có thể mua trực tiếp từ Ấn Độ, chuyển giao giấy phép sản xuất vũ khí hoặc phụ tùng cho các nước khác. Không chỉ có Ấn Độ mà còn có Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ và một số nước mà nền công nghiệp quốc phòng phụ thuộc rất lớn vào năng lực quốc phòng của Nga.

    Cho nên, xét tới những khả năng như vậy, có thể thấy việc Việt Nam thông qua Bắc Triều Tiên để tiếp cận vũ khí hoặc linh kiện sản xuất từ Nga tạo ra rủi ro nhiều hơn lợi ích. Rủi ro lớn nhất vẫn là rủi ro bị ảnh hưởng bởi cấm vận, bị ảnh hưởng về việc uy tín quốc tế của Việt Nam bị giảm sút. Nhưng quan trọng hơn nữa là cấm vận. Vì rủi ro khá là cao nên khả năng đó khá là thấp. Mặc dù đã có thảo luận nội bộ về vấn đề này nhưng khả năng đó khó xảy ra và hầu như không xảy ra ở thời điểm hiện tại. Và khả năng làm việc trực tiếp với Nga đã nổi lên từ cuối năm ngoái (2023). Việt Nam không cần thông qua Bắc Triều Tiên để là việc với Nga mà Việt Nam sẽ làm việc trực tiếp với Nga.

    RFI : Trong thời gian gần đây, Bình Nhưỡng đạt nhiều tiến bộ hơn về công nghệ tên lửa đạn đạo, như chúng ta thấy qua những vụ thử gần đây và được cho là nhờ Nga giúp đỡ. Liệu thông qua Bắc Triều Tiên, Việt Nam có thể tiếp cận được những công nghệ tiên tiến đó không, theo mô hình trao đổi hợp tác đôi bên cùng có lợi ?

    Nguyễn Thế Phương : Về mặt lý thuyết, đi đường vòng như vậy là có thể nhưng về mặt thực tế thì tốn cả thời gian, công sức và tiền bạc. Nhanh nhất, hiệu quả nhất, đỡ tốn thời gian nhất vẫn là Việt Nam làm việc trực tiếp với Nga bởi vì hai nước là đối tác chiến lược toàn diện, có mối quan hệ an ninh quốc phòng mật thiết và truyền thống. Hiện nay công nghệ mà Việt Nam quan tâm nhất của Nga là công nghệ hạt nhân, thì Việt Nam làm việc trực tiếp với Nga, không cần thông qua ai. Nên xét về lợi ích giá trị mang lại và mất đi, quan điểm riêng của tôi vẫn là làm trực tiếp với Nga sẽ nhanh hơn và đỡ tốn hơn là đi vòng.

    Thứ hai, quan hệ song phương hiện nay giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên không được tốt như trước đây. Phải khẳng định như vậy ! Quan hệ chỉ ở mức ngoại giao, tạm gọi là « thân thiết » về mặt ý thức hệ, cũng như là việc Việt Nam làm trung gian trong một số vấn đề chính trị, ví dụ giữa Bắc Triều Tiên và Hàn Quốc hoặc là giữa Nhật Bản và Bắc Triều Tiên hoặc Mỹ và Bắc Triều Tiên. Còn về mặt thực chất, hầu như mối quan hệ giữa Việt Nam và Bắc Triều Tiên không tiến triển gì nhiều trong mấy thập niên trở lại đây. Cho nên khả năng thông qua bắc Triều Tiên để tiếp cận công nghệ, về mặt lý thuyết, là có, nhưng rất khó xảy ra. Với tình hình hiện tại, với mối quan hệ Việt-Triều, với mối quan hệ Việt-Nga hiện tại thì việc đó khó xảy ra.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải, Đại Học New South Wales, Úc.

  • Mặc dù đã trở thành một trong những đối tác thương mại hàng đầu của Hoa Kỳ, từ hơn hai thập niên qua, Việt Nam vẫn nằm trong danh sách các quốc gia mà Hoa Kỳ xem là những nền kinh tế phi thị trường. Tổng cộng danh sách này hiện có 12 quốc gia, bao gồm cả Trung Quốc, Nga và một số quốc gia khác cũng thuộc Liên Xô cũ.

    Hàng hóa nhập từ những nước bị xem là nền kinh tế phi thị trường vẫn bị Hoa Kỳ áp thuế “chống phá giá”. Trong thương mại quốc tế, bị xem là phá giá khi hàng xuất khẩu của một quốc gia cố tình được định giá thấp hơn giá trong nước, và như vậy là gây bất lợi cho các ngành công nghiệp của quốc gia nhập khẩu hàng. Thuế “chống phá giá” chủ yếu nhằm bù đắp cho sự chênh lệch giữa giá hàng được xuất khẩu và giá bình thường của hàng đó.

    Trong thời gian gần đây, Hà Nội đã thúc giục chính quyền tổng thống Joe Biden nhanh chóng công nhận Việt Nam là một nền kinh tế thị trường, bởi vì đối với họ, Việt Nam đã thực hiện đủ những cải cách kinh tế để xứng đáng được hưởng quy chế đó. Hơn nữa, nhân chuyến viếng thăm Hà Nội của tổng thống Biden tháng 9 năm ngoái, hai nước đã nâng quan hệ song phương lên thành “đối tác chiến lược toàn diện”, tức là Việt Nam đã xem Hoa Kỳ ngang hàng với Trung Quốc và Nga. Đối với Hà Nội, việc Washington vẫn xem Việt Nam là “nền kinh tế phi thị trường” gây cản trở cho việc tăng cường quan hệ giữa hai nước, trong khi những nước lớn khác như Nhật Bản, Úc, Anh Quốc và Canada đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường.

    Vài ngày sau khi tổng thống Biden đặt chân đến Việt Nam, Hà Nội đã nộp đơn xin Hoa Kỳ cấp quy chế kinh tế thị trường và một tháng sau đó, bộ Thương Mại Mỹ bắt đầu tiến trình xem xét dỡ bỏ Việt Nam khỏi danh sách các quốc gia bị áp thuế phá giá. Theo quy định của phía Mỹ, bộ Thương Mại có tổng cộng 270 ngày, tức là đến tháng 7 năm nay, để hoàn tất việc xem xét và đưa ra kết luận.

    Được xem là kinh tế thị trường sẽ mang lại những thay đổi nào cho kinh tế Việt Nam? Trả lời RFI Việt ngữ qua điện thoại từ Hà Nội ngày 21/05/2024, chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh cho biết:

    “Hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nếu như Việt Nam được Hoa Kỳ công nhận là kinh tế thị trường thì rất nhiều mặt hàng sẽ có thuế suất bằng 0% hoặc thuế suất rất thấp và điều sẽ kích thích mối quan hệ kinh tế giữa hai nước và thúc đẩy luồng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, có lợi cho cả hai bên.

    Nếu được công nhận là nền kinh tế thị trường và với việc đầu tư của các công ty Hoa Kỳ vào công nghiệp bán dẫn, thì điều này sẽ mang lại cho Việt Nam rất nhiều thuận lợi trong việc phát triển xuất khẩu, cũng như đóng góp cho tăng trưởng kinh tế.”

    Như vậy là nếu thoát khỏi thuế chống bán phá giá, hàng hóa của Việt Nam sẽ có sức cạnh tranh cao hơn trên thị trường Mỹ.

    Ngày 08/05/2024, bộ Thương Mại Hoa Kỳ đã tổ chức phiên điều trần trực tuyến về việc công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, trong đó họ đã nghe những lập luận của cả bên chống và bên ủng hộ. Quyết định công nhận Việt Nam là kinh tế thị trường cho tới nay vẫn gặp sự phản đối của các nhà sản xuất thép và các nhà nuôi nuôi tôm Mỹ, cũng như một số nghị sĩ Quốc Hội Hoa Kỳ, tuy được các tập đoán ngành bán lẻ và các tập đoàn những ngành khác ủng hộ.

    Theo hãng tin Reuters, trong cuộc điều trần hôm đó, chủ tịch Hội đồng Doanh nghiệp Mỹ-ASEAN, ông Ted Osius, nguyên đại sứ Hoa Kỳ ở Việt Nam, tuyên bố: “Việt Nam đã là một nền kinh tế thị trường rồi, vì đã đáp ứng tiêu chuẩn chủ chốt đó là khả năng chuyển đổi tiền tệ”.

    Nhưng Liên minh Tôm miền Nam gồm các ngư dân và nhà chế biến tôm Hoa Kỳ cho biết họ phản đối việc cấp quy chế kinh tế thị trường, vì theo họ, vẫn còn các rào cản về quyền sở hữu đất đai của Việt Nam, luật lao động của Việt Nam còn yếu kém và thuế đánh vào tôm ở Việt Nam thấp hơn, gây tổn hại cho các thành viên của Liên minh.

    Việc nâng cấp quy chế của Việt Nam cũng gặp phải sự phản đối đáng kể tại Quốc Hội Hoa Kỳ, với 8 thượng nghị sĩ và 31 dân biểu Hạ viện đưa ra lập luận tương tự với bộ trưởng Thương Mại Gina Raimondo. Theo họ, việc cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam sẽ hỗ trợ các công ty nhà nước Trung Quốc đã đầu tư nhiều vào Việt Nam, bằng cách giúp họ lách thuế nhập của Mỹ dễ dàng hơn.

    Roy Houseman, đại diện của liên minh các nhà sản xuất thép lớn của Mỹ, United Steelworkers Union (USW), nói thêm rằng thay đổi quy chế cho Việt Nam sẽ "làm xói mòn cơ sở sản xuất trong nước của chúng ta, làm suy yếu khả năng phục hồi của chuỗi cung ứng của Hoa Kỳ... và củng cố vai trò của Việt Nam như một kênh trung chuyển hàng hóa Trung Quốc được buôn bán không công bằng."

    Đối với chuyên gia kinh tế Lê Đăng Doanh, các tiêu chuẩn do Hoa Kỳ đặt ra để công nhận là kinh tế thị trường còn quá xa so với tiêu chuẩn hiện nay của Việt Nam:

    “Giữa Hoa Kỳ và Việt Nam thì mối quan hệ đã phát triển tốt đẹp và giữa hai nước hiện nay đang có quan hệ hợp tác chiến lược. Riêng về kinh tế, Hoa Kỳ có những tiêu chuẩn về nền kinh tế thị trường, trong đó đòi hỏi phải có đồng tiền được chuyển đổi đầy đủ, tức là trong bất kỳ tình huống nào, trong nước và ngoài nước, đồng tiền đều có thể được chuyển đổi sang ngoại tệ.

    Một điều kiện nữa là giữa người sử dụng lao động và người lao động phải được tự do thỏa thuận tiền lương, rồi thì phải có công đoàn độc lập, v.v…

    Đó là những tiêu chuẩn mà hiện nay còn xa so với những tiêu chuẩn mà Việt Nam đang áp dụng, do điều kiện phát triển cụ thể của Việt Nam. Vì vậy, tôi thấy đây là một cuộc điều tra, xem xét khó khăn.

    Hoa Kỳ dự kiến đến tháng 7 sẽ có tuyên bố kết luận về điều này. Tôi hy vọng là việc xem xét này sẽ không gây cản trở cho mối quan hệ hợp tác kinh tế, vì hiện nay Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu số một của Việt Nam.”

    Theo Reuters, trong cuộc điều trần hôm 08/05, các luật sư đại diện Việt Nam khẳng định rằng việc tăng lương ở Việt Nam là kết quả của thương lượng giữa người lao động với chủ công ty. Nhưng tổ chức bảo vệ nhân quyền của Mỹ Human Rights Watch ( HRW ) cho biết Việt Nam vẫn không đáp ứng các tiêu chuẩn cơ bản về quyền lao động để có thể được xem là nền kinh tế thị trường. Theo HRW, thật sai lầm khi nói rằng công nhân Việt Nam có thể tự thành lập công đoàn, hoặc nói rằng tiền lương của họ là kết quả của thương lượng tự do.

    Theo ông Lê Đăng Doanh, tiêu chuẩn liên quan đến công đoàn độc lập có lẽ sẽ là trở ngại lớn nhất cho việc Hoa Kỳ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường:

    “Việt Nam chưa có trả lời về việc có thay đổi quy chế hiện nay hay không. Trong nước chưa thấy có sáng kiến hay đề nghị nào về việc xem một Luật Công đoàn, trong đó có công đoàn độc lập.

    Vì vậy tôi nghĩ là giữa Việt Nam và Hoa Kỳ cần tiếp tục có những trao đổi sâu sắc và đầy đủ để hai bên hiểu biết nhau đầy đủ hơn. Hiện nay Việt Nam quan niệm công đoàn là phải do đảng, cho nên hoạt động của công đoàn về nhiều mặt rất là năng động, nhưng đều dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của cơ quan đảng. Ngay cả công đoàn ở các doanh nghiệp tư nhân cũng phải được đặt dưới sự lãnh đạo của tổ chức đảng ở các doanh nghiệp đó. Cho nên Việt Nam cũng yêu cầu thành lập các tổ chức đảng ở các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp đầu tư nước ngoài”.

    Ngoài hai tiêu chuẩn về khả năng chuyển đổi tiền tệ và về lao động, quốc gia muốn được Mỹ công nhận là kinh tế thị trường còn phải cho phép liên doanh hoặc hình thức đầu tư nước ngoài khác. Hoa Kỳ cũng sẽ xem xét chính phủ của nước đó có sở hữu hay kiểm soát các phương tiện sản xuất hay không, cũng như có kiểm soát việc phân bổ nguồn lực, giá và quyết định sản lượng hay không. Một tiêu chuẩn khác có thể là nhân quyền ở Việt Nam.

    Vấn đề là chính phủ Hoa Kỳ xem xét cấp quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam trong bối cảnh đang diễn ra chiến dịch vận động tranh cử cho cuộc bầu cử tổng thống tháng 11. Theo hãng tin Reuters, tổng thống Joe Biden đang muốn thu hút lá phiếu từ giới lao động, nhất là những công nhân ngành thép ở Pennsylvania, được xem là một bang dao động ( swing state ) có vai trò quan trọng đối với kết quả bầu cử.

    Ông Biden gần đây đã phản đối kế hoạch của hãng thép Nhật Bản Nippon Steel mua lại hãng US Steel ở Pittsburgh, đồng thời kêu gọi phải đánh thuế cao hơn với thép nhập khẩu từ Trung Quốc.

    Ấy là chưa kế đến khả năng cựu tổng thống Donald Trump trở lại Nhà Trắng sau cuộc bầu cử tháng 11 và điều này có thể sẽ ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế giữa Hoa Kỳ với Việt Nam, theo chuyên gia Lê Đăng Doanh:

    “Theo những thông tin mà tôi được biết, nếu ông Trump thắng cử, ông sẽ lập lại những yêu cầu, những lời hứa của ông và điều này sẽ gây nhiều khó khăn cho xuất nhập khẩu giữa Việt Nam với Hoa Kỳ. Tức là có thể ông Trump sẽ đánh thuế và sẽ xem xét lại những cam kết mà Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được trong thời tổng thống Biden.”

  • Kể từ khi chính phủ Cam Bốt công bố kế hoạch xây dựng kênh đào Funan Techo ( Phù Nam Techo ), chính phủ Việt Nam và một số chuyên gia đã bày tỏ quan ngại về tác động của dự án này đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, giới chuyên gia Việt Nam lại không đồng nhất ý kiến về tác động thật sự của kênh đào Funan Techo, nhất là đối với lưu lượng của các con sông tại vùng đồng bằng này.

    Về mặt giao thông, với kênh đào này, dự án 1,7 tỷ đôla do Trung Quốc tài trợ, hàng hóa từ thủ đô Phnom Penh sẽ được vận chuyển thẳng đến các cảng trên Vịnh Thái Lan, không đi vòng qua Việt Nam nữa.

    Theo thông tin từ phía Cam Bốt, kênh đào Funan Techo sẽ có chiều dài khoảng 180 km, đi qua 4 tỉnh ( Kandal, Takeo, Kampot và Kep) với tổng dân số sinh sống hai bên ven sông là 1,6 triệu người. Dự án cũng sẽ xây dựng 3 âu thuyền để duy trì mực nước, 11 cây cầu và 208 km đường mới kèm theo.

    Theo thiết kế, kênh Funan Techo sẽ có chiều rộng 100m ở thượng nguồn, 80m ở hạ lưu và có độ sâu 5,4m. Dự kiến kênh đào sẽ được khởi công vào khoảng cuối năm 2024 và hoàn thành vào năm 2027, với tổng lượng hàng hóa lưu thông qua tuyến đường thủy mới này được ước lượng là 7 triệu tấn/năm.

    Chính phủ Hà Nội đã chính thức lên tiếng bày tỏ quan ngại về tác động của kênh đào Funan Techo đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long. Về ý kiến của các chuyên gia, theo báo chí trong nước, tại hội nghị tham vấn về Dự án kênh đào Funan Techo, do Ủy ban sông Mekong Việt Nam (VNMC) tổ chức ngày 23/4 ở Cần Thơ, tiến sĩ Lê Anh Tuấn, Giảng viên Cao cấp của Khoa Môi trường, Trường Đại học Cần Thơ, lưu ý là báo cáo của Ủy ban sông Mekong quốc gia Cam Bốt (CNMC) chỉ đề cập đến chức năng của kênh Funan Techo như một thủy lộ hay kênh giao thông thủy, mà lại không đề cập đến các chức năng khác, cụ thể không nói rõ là kênh có phục vụ tưới tiêu, sản xuất nông nghiệp, lấy nước sinh hoạt hay không và mức độ khai thác thế nào.

    Theo ông Lê Anh Tuấn, kênh Funan Techo sẽ liên quan đến dòng chính sông Mekong và có tác động đến đồng bằng sông Cửu Long, lượng nước của sông Mekong về đồng bằng sông Cửu Long có thể giảm nghiêm trọng hơn những năm khô hạn. Bên cạnh đó, kênh đào Funan Techo được cho là sẽ có tác động về hệ sinh thái, môi trường và tính đa dạng sinh học của vùng này.

    Cũng tại hội nghị nói trên, ông Phạm Hồ Quốc Tuấn, Đài khí tượng thủy văn khu vực Nam Bộ, nhắc lại, từ Phnom Penh, dòng chảy sông Mê Kông có phân lưu sông Bassac ( Hậu Giang, theo tên Việt Nam ), phân chia dòng chảy từ thượng nguồn về hạ lưu. Khi kênh đào Funan Techo đi vào hoạt động, dòng chảy sông Mekong sẽ phân chia thêm một lượng nước về sông Bassac, làm giảm dòng chảy sông Mekong về hạ lưu (Tiền Giang ), dẫn đến khả năng là nguy cơ thiếu hụt lượng nước trong mùa khô ngày càng nghiêm trọng hơn.

    Tuy nhiên, một số chuyên gia khác như giáo sư Võ Tòng Xuân, Hiệu trưởng danh dự Trường Đại học Nam Cần Thơ, thì không tin vào kịch bản nói trên:

    “Theo tôi và một số anh em trong ngành thủy lợi, mình không nên lo lắng nhiều quá, tại vì sông Mekong chảy từ Tây Tạng qua Vân Nam ( Trung Quốc ), Lào, Thái Lan, Cam Bốt, rồi mới đổ vào Việt Nam. Nếu có dịp đi dọc theo sông Mekong ta sẽ thấy dòng sông này, sau Lào, khi xuống tới đoạn Cam Bốt qua Việt Nam, có những khúc không đi tàu được, vì nhiều đoạn chỉ là ghềnh thác hoặc đá sỏi. Cho nên, trong thực tế, những nước phía trên Việt Nam không tận hưởng được nước như tại đồng bằng sông Cửu Long của mình, vì mặt đất ruộng của họ cách mặt nước của dòng sông khá là xa, có nơi tới mười mấy, hai chục mét, thành ra không cách chi mà lấy nước để mà tưới được.

    Mực nước sông Mekong khi vào Việt Nam thì cách mặt đất ruộng chỉ khoảng 1 mét, cho nên mình hưởng nước này gần như trọn vẹn hơn các nước phía trên. Sông Cửu Long khi xuống tới Việt Nam thì dòng Tiền Giang trở nên rất là mạnh, trong khi Hậu Giang chảy rất yếu. Do đó, thiên nhiên cũng tạo ra sông Vàm Nao, tách ra từ Tiền Giang, đổ xuống dưới,chảy vào Hậu Giang. Cụ thể là trong mùa mưa, mùa lụt, lưu lượng của nước từ Tiền Giang tràn qua phía Hậu Giang, tạo thành sông Vàm Nao.

    Trước năm 1974, lưu lượng của sông Cửu Long đo tại Kratie bên Cam Bốt trong mùa nước lớn là khoảng 40.000 m3/giây, nhưng tới mùa nắng, mùa khô thì còn tối đa là 2.000 m3/giây. Nhưng sau năm 1974 cho tới những năm gần đây, lưu lượng mùa khô tăng lên thành 2.300 m3/giây, chứng tỏ là nó có nhiều nước hơn trong lúc này. Tuy nhiên, khi vào đến Phnom Penh, khi Mekong chảy thành hai đoạn, thì kênh đào Funan Techo sẽ lấy nước từ Hậu Giang, tức là sông yếu hơn của Mekong. Thành ra, những người lo lắng, bi quan thì nói là nó sẽ lấy nước đồng bằng sông Cửu Long ít nhất là từ 50% đến 70%, thì đồng bằng sông Cửu Long sẽ khô hạn hết. Tôi và một số chuyên gia về thủy lợi thì không tin điều đó, tại vì sông Tiền Giang từ xưa đến nay luôn luôn là rất mạnh. Bây giờ dù phía Cam Bốt có lấy nước đi nữa, thì nó cũng còn ở phía trên, còn bên mình thì nước chảy xuống những cao độ thấp hơn bên đó, cho nên mình vẫn có thể hưởng được dòng Tiền Giang, rồi từ Tiền Giang qua sông Vàm Nao để đổ vào hệ thống Hậu Giang.”

    Thật ra thì một số chuyên gia lo lắng là vì đối với họ, báo cáo của Ủy ban sông Mekong quốc gia Cam Bốt về kênh đào Funan Techo “chưa phân tích đầy đủ, chưa thể hiện hết các mặt của sự tác động”. Vì thế, họ yêu cầu phía Cam Bốt chia sẻ minh bạch các thông tin chi tiết về dự án bao gồm cả báo cáo khả thi và kết quả đánh giá tác động môi trường của dự án. Họ cũng đề nghị Ủy hội sông Mekong quốc tế cần hỗ trợ các quốc gia tiến hành một nghiên cứu chung về tác động xuyên biên giới của dự án tới tất cả các lĩnh vực và đề xuất biện pháp giảm thiểu tác động.

    Riêng đối với giáo sư Võ Tòng Xuân, phía Cam Bốt cần phải cung cấp thêm một số thông tin để có thể đánh giá tác động của kênh đào Funan Techo đối với lưu lượng các con sông ở đồng bằng sông Cửu Long:

    “Thật sự lưu lượng nước lấy từ sông Hậu Giang bên phía Cam Bốt để cung cấp cho kênh đào này không quá nhiều như là nhiều người đang lo. Trái lại, nó sẽ lấy vừa phải, bởi vì bản thân dòng nước này đã yếu rồi. Bây giờ mình sẽ hỏi thêm là họ có đào thêm một con kênh mới để nối Tiền Giang với Hậu Giang để đưa xuống con kênh này hay không, thì mình sẽ biết rõ ràng hơn, chắc chắn hơn là họ lấy bao nhiêu nước. Đến chừng đó mình mới dám kết luận là kênh Funan Techo có làm hại cho lượng nước xuống đồng bằng sông Cửu Long của mình hay không? Bây giờ mình chỉ mới nói theo cảm tính thôi, chứ còn số liệu cụ thể thì chưa có"

    Về phía chính phủ Việt Nam, trong cuộc họp báo ngày 05/05/2024, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Phạm Thu Hằng đã ra lời kêu gọi với phía Cam Bốt:

    “Chúng tôi mong rằng Cam Bốt tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Việt Nam và các nước trong Ủy hội sông Mekong chia sẻ thông tin, đánh giá đầy đủ tác động của dự án này đối với nguồn nước, tài nguyên nước và môi trường sinh thái của khu vực tiểu vùng sông Mekong" .

    Đáp lại những quan ngại nói trên, chính phủ của thủ tướng Hun Manet vẫn không thay đổi lập trường, đó là họ sẽ tiến hành xây dựng kênh đào Funan Techo mà không cung cấp thông tin chi tiết về dự án này cho phía Việt Nam. Theo nhật báo Khmer Times, trong một cuộc họp báo với các phóng viên trong nước vào ngày 07/05, phó thủ tướng Sun Chanthol khẳng định dự án kênh đào "chỉ cần 5 mét khối mỗi giây (m3/s), tương đương 0,053% lưu lượng sông Mekong", tức là sẽ không gây tình trạng thất thoát nước. Ông còn khẳng định khi đi vào hoạt động, kênh đào "sẽ góp phần giảm nhẹ lũ lụt ở miền Nam Việt Nam".

    Ông Chanthol cho biết đã tham khảo Hiệp định Mekong năm 1995, quy định rằng các hoạt động ảnh hưởng đến các nhánh của sông Mekong, bao gồm cả Tonle Sap, phải được “thông báo” cho Ủy ban Hỗn hợp. Cam Bốt đã thông báo cho ủy ban này vào ngày 08/08/2023. Nhưng phó thủ tướng Chanthol nhấn mạnh : “Cam Bốt không bắt buộc phải tham vấn trước hoặc phải có thỏa thuận cụ thể từ các nước thành viên Ủy hội sông Mekong ( MRC)”.

    Phó thủ tướng Cam Bốt ngược lại đã chỉ trích Hà Nội khi nêu lên dự án cải tạo kênh Chợ Gạo ở miền Nam Việt Nam và khẳng định là phía Việt Nam "thậm chí còn không thông báo về dự án này cho Ủy hội sông Mekong”.

    Cũng theo Khmer Times, cựu thủ tướng Hun Sen, hiện là chủ tịch Thượng Viện Cam Bốt, hôm 16/05 thậm chí còn kêu gọi chính phủ đừng chờ đợi nữa mà hãy tiến hành xây kênh đào Funan Techo càng sớm càng tốt để chấm dứt những tranh luận chung quanh dự án này.

  • Năm 2023, tại Việt Nam, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh vẫn ở mức cao, tức là 112 bé trai trên 100 bé gái, trong khi tỷ số tự nhiên là khoảng 105/100, theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê vừa được công bố đầu năm nay. Năm 2022, tỷ số này là 113,7 bé trai trên 100 bé gái, đã được đánh giá nghiêm trọng, thế mà năm 2023 còn tiếp tục tăng thêm.

    Vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh thực sự trở thành thách thức đối với Việt Nam từ năm 2006 khi tỷ số giới tính khi sinh tăng lên 109,8 bé trai/100bé gái.

    Theo Tổng cục Dân số - Kế hoạch hóa gia đình, thuộc Bộ Y tế, tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam tuy xuất hiện muộn hơn một số nước, nhưng tăng nhanh và lan rộng, xảy ra ở cả thành thị và nông thôn. Xét ở phạm vi vùng kinh tế-xã hội, vào năm 2006 chỉ mới có 3/6 vùngmất cân bằng giới tính khi sinh, đến năm 2021 cả 6/6 vùng đều bị mất cân bằng giới tính khi sinh ở cả thành thị và nông thôn.

    Đặc biệt, Việt Nam là một trong những quốc gia hiếm hoi trên thế giới có sự chênh lệch giới tính khi sinh ngay từ đứa con đầu tiên, tức là các cặp vợ chồng lựa chọn giới tính ngay ở lần sinh đầu tiên. Tình trạng mất cân bằng giới tính này đưa Việt Nam vào trong nhóm các quốc gia có tỷ lệ mất cân bằng giới tính cao nhất. Theo một báo cáo năm 2020 của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc ( UNFPA ), riêng tại châu Á, tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh của Việt Nam đứng thứ 3 châu Á, chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ.

    Riêng tại Việt Nam, tâm lý ưa thích con trai, tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã tồn tại từ rất lâu ở Việt Nam và là nguyên nhân chính gây ra mất cân bằng giới tính khi sinh. Nguyên nhân thứ hai lạm dụng khoa học – công nghệ. Ngoài ra, các quy định pháp luật chưa được thực thi nghiêm làm trầm trọng hơn tình trạng này.

    Trả lời RFI Việt ngữ ngày 08/01/2024, bà Nguyễn Vân Anh, giám đốc Trung tâm Nghiên cứu & Ứng dụng khoa học về Giới - Gia đình - Phụ nữ và Vị thành niên (CSAGA) ghi nhận:

    “ Thứ nhất là người Việt Nam mình thờ cúng tổ tiên và dòng họ thì theo họ bố. Tâm lý dòng họ vẫn là tâm lý rất nặng. Cha em thì trông chờ vào sự chăm sóc, sự nối dõi khi về già của người con trai gia đình. Vẫn có tâm lý là nếu không đẻ được con trai thì giống như là không làm tròn bổn phận đối với dòng họ, tổ tiên. Tâm lý đó còn rất nặng kể cả đối với những người ở thành phố, kể cả những người có học hành, có trình độ rất cao.

    Bây giờ còn có thêm một yếu tố, đó là các phương tiện để giúp người ta tìm kiếm sinh đẻ với giới tính theo ý muốn. Người ta có thể sử dụng rất nhiều kỹ thuật khác nhau, kể cả các kỹ thuật truyền thống và kỹ thuật hiện đại để đạt được điều đấy.

    Đấy là một trong những yếu tố rất quan trọng dẫn đến việc tỷ lệ con trai sinh ra vẫn nhiều hơn con gái”.

    Một báo cáo của Tổng cục Thống kê Việt Nam năm 2014 cho biết những gia đình mà vợ chồng có học vấn càng cao và kinh tế càng khá giả thì càng thích con trai. Một số thay đổi gần đây cũng góp phần làm trầm trọng thêm hiện tượng này như tỷ lệ sinh thấp, đặc biệt các công nghệ sinh sản hiện đại và chi phí phải chăng, cho phép nhiều người tiếp cận.

    Bà Nguyễn Vân Anh, giám đốc CSAGA, cũng ghi nhận:

    “ Luật pháp không cho phép, tuy nhiên người ta vẫn dùng muôn vàn thủ thuật để đạt được điều người ta muốn mà luật pháp không biết, ví dụ như các phương pháp truyền thống mà người ta truyền miệng với nhau để sinh được con trai, người ta có thể ra nước ngoài, tìm ra các kỹ thuật. Nói chung là có rất nhiều cách để lách luật, chứ luật pháp Việt Nam không chấp nhận việc sàng lọc giới tính khi sinh và không chấp nhận bác sĩ hoặc người làm siêu âm thông báo giới tính của thai nhi. Luật pháp đã cấm từ lâu rồi, nhưng người ta vẫn làm được việc đấy.”

    Theo báo mạng vnExpress ngày 8/10/2022, ngày càng có nhiều cặp vợ chồng chọn làm thụ tinh trong ống nghiệm (In vitro fertilization – viết tắt là IVF) để sinh cho bằng được một đứa con trai dù biết lựa chọn giới tính thai nhi là trái pháp luật. Đây là phương pháp sàng lọc và xét nghiệm phôi hiện đại, có thể xác định được giới tính phôi trước lúc chuyển vào cơ thể người mẹ.

    Tờ báo này cho biết, hơn chục năm trước, những người muốn làm IVF hầu hết phải sang Thái Lan, Singapore với chi phí cả tỷ đồng. Vài năm gần đây, Việt Nam trở thành trung tâm đào tạo về thụ tinh ống nghiệm của khu vực, chi phí IVF tại hơn 40 trung tâm, bệnh viện trên toàn quốc dao động trong khoảng từ 70 đến 100 triệu đồng, chỉ bằng 20-25% các nước. Từ năm 2017 trở đi, số ca IVF thực hiện mỗi năm ở Việt Nam đã cao nhất khu vực ASEAN. Năm 2019, cả nước có gần 35.000 ca IVF được thực hiện.

    Các chuyên gia cho rằng tình trạng mất cân bằng giới sẽ ảnh hưởng xấu tới cấu trúc dân số trong tương lai, dẫn tới dư thừa nam giới. Tổng cục Thống kê dự báo đến năm 2034, nếu tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam không giảm, Việt Nam sẽ “dư thừa” 1,5 triệu nam giới lứa tuổi 15-49. Đến năm 2059, dự báo con số này sẽ là 2,5 triệu. Nếu kịch bản này xảy ra, rất có thể Việt Nam sẽ phải “nhập khẩu cô dâu” như Trung Quốc và Ấn Độ. Giám đốc CSAGA Nguyễn Vân Anh chia sẽ mối quan ngại đó.

    " Các nhà khoa học đã nói nhiều rồi: Trong một xã hội mà số nam giới nhiều quá thì nhìn sang các nước hàng xóm thì chúng ta đã thấy, đến khi tỷ lệ nam giới thừa nhiều quá thì ngay cả việc tìm được một người bạn đời cũng không phải là dễ, thậm chí có nhiều nước mà mọi người phải tìm cách để có được những cô dâu từ nước ngoài.

    Thêm vào đó có thể còn có tình trạng xâm hại tình dục, cưỡng hiếp mà mọi người cũng đã nói khá nhiều rồi. Tôi nghĩ là sẽ còn những hệ lụy khác khi xã hội có sự mất cân bằng cao về giới tính, dồn đến một thời điểm nào đó thì sẽ bùng nổ."

    Trước tình trạng mất cân bằng giới tính ngày càng trầm trọng như vậy, theo bà Nguyễn Vân Anh, về lâu dài phải đẩy mạnh việc truyền thông theo hướng làm thay đổi cái nhìn của xã hội đối với phụ nữ:

    "Khi làm truyền thông, mình cũng đã tranh luận rất nhiều với những người làm công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình. Mình không thể truyền thông là hãy ngừng việc lựa chọn giới tính thai nhi. Truyền thông như thế không giải quyết được vấn đề, mà cần làm rõ hình ảnh của người phụ nữ trong xã hội là phải như thế nào.

    Nếu chúng ta nhìn thấy nhiều phụ nữ giỏi giang, có thể quản lý được cuộc đời mình và có thể có đời sống hạnh phúc, cũng như có thể thành công không kém gì nam giới, thì người ta sẽ thấy là nam giới và nữ giới không có khoảng cách. Nhưng nếu người ta chỉ nhìn thấy phụ nữ bị bạo lực, đời sống phải lệ thuộc, bị coi thường, thì người ta sẽ nghĩ rằng sinh ra làm phụ nữ rất là khổ. Nếu không chú ý điều đó, thì truyền thông của mình vẫn là sai.

    Cho nên, trong chương trình truyền thông của SCAGA trong thời gian dài, chúng tôi tập trung vào hình ảnh những phụ nữ và những nữ thanh niên thành đạt. Tại các trường thì ở cấp 3 khi hướng nghiệp, người ta thường nói là con gái thì không cần học nhiều, chỉ cần lấy được chồng tốt.

    Nhưng khi đến các trường, chúng tôi đem đến những tấm gương của nhiều phụ nữ thành đạt: người thì là cảnh sát quốc tế, người thì là cung thủ, kiếm thủ, hoặc là nhà bảo tồn động vật hoang dã đã đoạt nhiều giải thưởng quốc tế. Các em và các phụ huynh mới thấy: “ Ơ, phụ nữ cũng làm được những nghề này à? Thế mà từ trước đến giờ mình không biết!”. Các thầy cô giáo cũng thấy: “À, mình có thể hướng cho các em tự chọn theo khát vọng của các em, chứ không phải dựa vào giới tính của các em để tự định ra một cái khuôn là phụ nữ nên làm nghề này và nam giới nên làm nghề này.

    Nhưng tất cả những điều ấy sẽ khích lệ về lâu dài, chứ sự mất cân bằng giới tính thì không thể xóa bỏ một sớm một chiều được.”

    Thật ra thì đây là một hiện tượng phổ biến ở rất nhiều nước. Phát biểu tại một hội thảo quốc tế về mất cân bằng giới tính giới tính khi sinh, diễn ra tại Hà Nội đầu tháng 10/2022, ông Bjorn Andersson, Giám đốc khu vực châu Á - Thái Bình Dương của UNFPA, đã nêu bật: "Hiện có hơn 140 triệu phụ nữ 'bị thiếu hụt' trên khắp thế giới do tâm lý ưa thích con trai và lựa chọn giới tính".

  • Lần đầu tiên, sau 70 năm, Pháp được mời tham dự lễ kỉ niệm trận Điên Biên Phủ. Chuyến thăm Việt Nam của bộ trưởng Quốc Phòng Pháp Sébastien Lecornu và quốc vụ khanh phụ trách Cựu chiến binh và Ký ức Patricia Mirallès mang nhiều ý nghĩa, trong đó có một điểm quan trọng là hai nước « khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tốt đẹp ».

    Trong bài viết trên trang web ngày 06/05/2024, bộ Quân Lực Pháp nhấn mạnh : « Chuyến thăm còn là cơ hội tăng cường mối quan hệ về mặt quốc phòng và thể hiện mong muốn chung của hai nước góp phần bảo đảm ổn định cho vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, trong đó có Đông Nam Á. Nhìn vào những thách thức an ninh hiện nay trong vùng, Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược (…) ».

    Chuyến công du của bộ trưởng Quân Lực Pháp và dự sự kiện 70 năm Điện Biên Phủ có ý nghĩa như thế nào trong quan hệ song phương ? Hai nước sẽ thúc đẩy tiềm năng hợp tác quốc phòng như thế nào trong tương lai ? RFI Tiếng Việt phỏng vấn nhà nghiên cứu địa chính trị Laurent Gédéon tại Viện Đông Á (Institut d’Asie orientale), Trường Sư phạm Lyon (ENS Lyon), giảng viên Đại học Công giáo Lyon (Université catholique de Lyon).

    RFI : Trước khi tham dự lễ kỉ niệm trận Điện Biên Phủ, bộ trưởng Quân Lực Sébastien Lecornu viết trên mạng X ngày 06/05 : « Hai đất nước chúng ta đã xây dựng một mối quan hệ cho phép chúng ta thanh thản nhìn lại lịch sử chung và sáng suốt xem xét những sự hợp tác trong tương lai trong lộ trình được tổng thống Cộng hòa Pháp và tổng bí thư đảng Cộng sản Việt Nam vạch ra ». Phát biểu này có thể được hiểu như nào ?

    Laurent Gédéon : Trước tiên, tôi muốn nhấn mạnh chuyến thăm diễn ra trong bối cảnh có rất nhiều hoạt động ngoại giao trong thời gian này, với chuyến công du Pháp của chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình từ ngày 05-07/05, sau đó ông đến Serbia và Hungary. Trước đó, ngoại trưởng Mỹ Antony Blinken đến Bắc Kinh từ ngày 24-26/04. Và nhất là khả năng tổng thống Nga Vladimir Putin công du Trung Quốc trong tháng 5.

    Chuyến thăm Việt Nam của phái đoàn Pháp cũng mang ý nghĩa đặc biệt vì do bộ trưởng Quân Lực dẫn đầu. Hai bên chủ ý nhấn mạnh đến tính chất quân sự vì sự kiện được chọn để tổ chức chuyến công du là lễ kỷ niệm 70 năm trận Điện Biên Phủ. Ngoài ra, chúng ta cũng thấy rằng trong buổi làm việc hôm 06/05 với bộ trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phan Văn Giang, ông Sébastien Lecornu đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của hợp tác song phương nhằm chia sẻ những ký ức lịch sử và giải quyết hậu quả của cuộc chiến giữa hai nước.

    Đọc thêm : Pháp-Việt hàn gắn vết thương chiến tranh ở Điện Biên Phủ

    Tuy nhiên, chúng ta có thể thắc mắc là xây dựng một mối quan hệ chiến lược chân thành, bền vững và chất lượng liệu có xác đáng hay không khi xuất phát điểm là sự kiện được coi thắng lợi vang dội của một bên và là thất bại nặng nề cho bên kia. Trận Điện Biên Phủ vẫn chất chứa đầy cảm xúc cả với Pháp lẫn Việt Nam. Tuy nhiên, khi nhìn lại mối quan hệ Pháp-Việt, vốn lâu dài vì đã kéo dài trong gần một thế kỷ, thì thấy không thiếu những yếu tố chung. Cho nên cần quan tâm xem xét mối quan hệ này để xác định các điểm kết nối, ngoài mỗi khía cạnh xung đột. Nhưng đây có thể là nền tảng vững chắc, để dựa vào đó phát triển những mối quan hệ đặc biệt, thậm chí là rất riêng giữa hai nước. Sự xích lại gần nhau hơn, được hình thành từ đó, sẽ sâu sắc hơn và ít trồi sụt hơn như hiện nay - yếu tố khiến mối quan hệ yếu đuối và dễ bị tác động hơn trước những biến đổi ngoại giao và địa-chính trị.

    Trở lại tuyên bố của bộ trưởng Sébastien Lecornu, cho dù mô hình xích lại gần nhau nào đang diễn ra thì phát biểu của ông cũng thể hiện nguyện vọng của chính quyền Paris đưa Việt Nam vào tầm nhìn Chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp.

    RFI : Bộ trưởng Quân Lực Pháp đã hội đàm với đồng nhiệm Việt Nam. Ông cho rằng hai bên nên tích cực đối thoại, sớm thống nhất thỏa thuận về Chương trình Hợp tác quốc phòng Pháp-Việt giai đoạn 2025-2028. Vậy những điểm chính của chương trình hợp tác này có thể là gì ?

    Laurent Gédéon : Trước tiên cần phác lại một chút lịch sử mối quan hệ quốc phòng giữa Pháp và Việt Nam, được thiết lập từ năm 1991. Đến năm 2009, hai nước ký một hiệp định hợp tác về quốc phòng trên nhiều lĩnh vực, như gìn giữ hòa bình và quân y. Năm 2013, Paris và Hà Nội đã thiết lập quan hệ « Đối tác chiến lược ». Đến năm 2018 là « Tuyên bố Tầm nhìn chung về Quan hệ Hợp tác Quốc phòng 2018-2028 » và « Đối thoại Chiến lược và Hợp tác quốc phòng » được tổ chức trong khuổn khổ này. Mục đích của sáng kiến này là xây dựng một mối quan hệ vững chắc, có khả năng đáp trả những thách thức hiện tại, trong đó có an ninh hàng hải và chống khủng bố.

    Tuyên bố Tầm nhìn chung năm 2018 đã tạo xung lực cho hợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực, kể cả về trao đổi các đoàn, các cơ chế đối thoại, tham vấn, huấn luyện, công nghiệp quốc phòng, quân y, chia sẻ ký ức lịch sử, bảo tồn di tích chiến tranh, các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc cũng như là tham vấn và hỗ trợ nhau trong các diễn đàn và cơ chế đa phương.

    Đọc thêm :Việt Nam : Đối tác mới cho chiến lược Ấn Độ - Thái Bình Dương của Pháp ?

    Chúng ta thấy là vào tháng 12/2023, sau Đối thoại Chiến lược và Hợp tác Quốc phòng lần thứ ba, được tổ chức ở Paris, hai nước đã nhất trí tăng cường hợp tác quân đội thông qua việc gia tăng các cuộc trao đổi, hợp tác và huấn luyện cũng như nhấn mạnh đến an ninh hàng hải và chống khủng bố.

    Tiếp nối những thỏa thuận đó, bộ trưởng Sébastien Lecornu thông báo hôm 06/05 rằng ông đã ký với tướng Phan Văn Giang một « thỏa thuận khung » về những hợp tác trong tương lai liên quan đến « ký ức, để tạo thuận lợi cho việc truy cập tài liệu lưu trữ và trao trả thi hài quân nhân », « quân y, trong đó có nghiên cứu về các bệnh truyền nhiễm nhiệt đới », « các chương trương trình huấn luyện để tạo mối liên hệ cá nhân giữa quân đội hai nước », « các chuyến thăm viếng cập cảng để cùng đóng góp cho tự do lưu thông hàng hải », « duy trì hòa bình » và « trang thiết bị quốc phòng ». Hai bộ trưởng cũng xác nhận tiếp tục các cuộc trao đổi Pháp-Việt để sớm đi đến thống nhất về chương trình Hợp tác Quốc phòng song phương cho giai đoạn 2025-2028.

    Trong những năm tới, chắc chắn là Việt Nam sẽ tiếp tục tập trung ưu tiên vào Biển Đông. Điểm này đã được nói rõ trong cuộc gặp giữa hai bộ trưởng. Khi nhắc đến vấn đề hàng hải, hai bộ trưởng nhấn mạnh đến « tầm quan trọng của hòa bình, an ninh, ổn định, tự do lưu thông trên biển và trên không, giải quyết một cách hòa bình những tranh chấp phù hợp với luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS 1982, triển khai đầy đủ Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và tiếp tục đàm phán một Bộ Quy tắc Ứng xử ở Biển Đông (COC) hiệu quả và thực chất ».

    Theo tôi, trong bối cảnh này, hợp tác quốc phòng gia tăng giữa Việt Nam và Pháp có thể gồm những điểm : huấn luyện, cung cấp vật tư, vũ khí, đón tiếp tàu chiến Pháp (như tàu tuần dương Vendémiaire đến cảng Tiên Sa ngày 11/04/2024) cũng như tổ chức các cuộc tập trận chung.

    RFI : Ông Sébastien Lecornu cho biết là Pháp sẽ tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế Việt Nam lần thứ 2 vào cuối năm 2024, đồng thời Pháp sẵn sàng giúp quân đội Việt Nam để được hiệu quả hơn thông qua huấn luyện và không loại trừ khả năng cung cấp trang thiết bị trong tương lai. Qua phát biểu của bộ trưởng Lecornu, liệu Pháp có muốn trở thành nhà cung cấp vũ khí cho Việt Nam không ? Và liệu có những hạn chế nào không ?

    Laurent Gédéon : Trước hết phải nói rằng doanh số Pháp bán vũ khí cho Việt Nam hiện không đáng kể mặc dù Pháp là nhà xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai trên thế giới. Việc thị trường Việt Nam chiếm vị trí thấp phù hợp với thực tế Việt Nam vẫn là đối tác thương mại tương đối thứ cấp của Pháp, đứng thứ 46 trong số khách hàng (chỉ chiếm 0,3% lượng hàng xuất khẩu của Pháp) và đứng vị trí thứ 21 về nhà cung cấp (chiếm 0,9% hàng nhập khẩu Pháp). Ngoài ra, Việt Nam vẫn giữ mối liên hệ lịch sử với Nga, nhất là về mặt quân sự vì quân đội Việt Nam sử dụng chủ yếu vũ khí của Nga, chiếm gần 70% kho vũ khí.

    Đối với Pháp, việc tham gia Triển lãm Quốc phòng Quốc tế do Việt Nam tổ chức có lẽ đánh dấu cho sự chuyển hướng chính sách của Paris, ví dụ như chuyến công du của ông Sébastien Lecornu, và đồng thời thúc đẩy tăng cường bán vũ khí cho Việt Nam trong bối cảnh Hà Nội cũng đang tìm cách đa dạng hóa quan hệ để không bị phụ thuộc quá nhiều vào một đối tác duy nhất, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng gia tăng với Trung Quốc ở Biển Đông.

    Đọc thêm : Pháp khó “chen chân” vào thị trường vũ khí Việt Nam

    Tuy nhiên, nếu mong muốn chính trị này được đúc kết thành các hợp đồng vũ khí thì cũng phải tính đến một số hạn chế về ngoại giao cho phía Pháp liên quan đến khả năng Trung Quốc gây sức ép đối với Paris. Phía Việt Nam cũng sẽ phải đối phó với nhiều hạn chế, như hạn chế về ngân sách liên quan đến chi phí của một số loại vũ khí ; hạn chế về khả năng vì mục tiêu của Hà Nội vẫn là để phòng thủ, chứ không phải tấn công với loại vũ khí tương ứng ; hạn chế về kỹ thuật liên quan đến việc quân đội Việt Nam sử dụng chủ yếu thiết bị quân sự của Liên Xô trước đây và Nga hiện nay và điều này đặt ra nhiều vấn đề về tính tương thích công nghệ và hệ thống với vũ khí của Pháp.

    Ngoài ra, mong muốn đa dạng hóa nguồn cung quân sự cũng có thể dẫn đến một kiểu phụ thuộc vào nhà cung cấp, nhất là về vũ khí có công nghệ cao và Hà Nội có thể lưỡng lự trước một lựa chọn như vậy. Cuối cùng, theo tôi, cần phải nhắc đến sự phát triển hợp tác quân sự Pháp-Việt còn phụ thuộc vào tương lai của quan hệ đối tác giữa Hà Nội và Matxcơva. Giả sử nếu Nga giành chiến thắng trong chiến tranh Ukraina, vị thế ngoại giao và độ tin cậy của Nga cũng sẽ được củng cố trong mắt các đối tác, trong đó có Việt Nam. Ngược lại, nếu Nga thất bại ở Ukraina, Hà Nội có thể sẽ tìm cách giảm phần nào hợp tác và hướng sang các đối tác khác nhiều hơn, trong đó có Pháp.

    RFI : Bộ trưởng Quân Lực Pháp cũng nhắc đến ASEAN và Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng các nước ASEAN (ADMM) mà Pháp hiện là một nhà quan sát. Pháp có thể trông đợi được gì từ Hà Nội ? Việt Nam có thể đóng vai trò như thế nào trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp ?

    Laurent Gédéon : Nhìn vào sự phát triển hợp tác với Hà Nội, có lẽ Paris sẽ trông cậy vào sự ủng hộ của Việt Nam để tạo thuận lợi cho việc tham gia cơ chế hợp tác quốc phòng này của ASEAN.

    Về vai trò của Việt Nam trong chiến lược Ấn Độ-Thái Bình Dương của Pháp, một điều chắc chắn là Pháp phát triển mối quan hệ với Việt Nam vì có liên quan đến lợi ích của Pháp ở vùng Nam Thái Bình Dương. Tuy nhiên, Trung Quốc hiện là vấn đề địa chiến lược chính ở trong vùng đối với Paris. Cho nên có thể đối với Pháp, Việt Nam phần nào cũng có thể là một trong những kênh mà Paris có thể sử dụng để gây áp lực đối với Bắc Kinh.

    Tôi nói điều này vì trong một diễn đàn chung trên báo Valeurs actuelles ngày 05/05, ông Sébastien Lecornu và bà Patricia Mirallès đã nhấn mạnh rằng « trong một thế giới bất ổn và nguy hiểm nơi nhiều thế lực không còn ngần ngại chà đạp lên những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Pháp muốn phối hợp nhiều hơn với Việt Nam để củng cố ổn định ở vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương, nơi có 1,6 triệu người Pháp hải ngoại sinh sống, và cũng bao gồm khu vực Đông Nam Á, đặc biệt là khối ASEAN và các quốc gia thành viên ». Cùng vì mục đích này, bộ trưởng Quân Lực Pháp đã đến Nouméa (thủ phủ của Nouvelle Calédonie của Pháp) ngày 04/12/2023 nhân Hội nghị bộ trưởng Quốc Phòng Nam Thái Bình Dương lần thứ 10, gồm các nước Pháp, Úc, New Zealand, Chilê, New Guinea, quần đảo Tonga và Fidji. Do đó, chúng ta hiểu rằng mối quan hệ của Pháp với Việt Nam không thể tách rời khỏi những lợi ích của Pháp ở Nam Thái Bình Dương.

    Đọc thêm : Shangri-La : Pháp sẽ tăng cường hiện diện quân sự tại châu Á – Thái Bình Dương

    Do đó, câu hỏi đặt ra là sự hội tụ lợi ích giữa hai nước. Ngoài ý nghĩa thông báo, đâu là những lợi ích chung thực sự giữa Pháp và Việt Nam ? Việt Nam định nghĩa vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương như thế nào ? Và Pháp coi vùng này như thế nào ? Nhìn vào những lợi ích chiến lược của Pháp và Việt Nam hiện nay, có lẽ sự hội tụ lợi ích này khá là yếu và chỉ Trung Quốc là điểm chung chiến lược thực sự giữa hai nước. Hơn nữa, các khu vực địa lý liên quan, tức là những khu vực tập trung lợi ích riêng của hai nước, lại không giống nhau : Đối với Việt Nam là Biển Đông, còn đối với Pháp là vùng Nam Thái Bình Dương. Khi phân tích tình hình, người ta thấy rằng phía Pháp có thể sẽ phục vụ cho lợi ích của Việt Nam hơn là theo chiều ngược lại. Pháp hiện diện ở Biển Đông thông qua các chiến hạm trung chuyển qua đây. Tuy nhiên, giả sử xảy ra một cuộc xung đột giữa Trung Quốc và các nước láng giềng ven biển, trong đó có Việt Nam, liệu Pháp có công khai lập trường ủng hộ Việt Nam không ?

    Câu hỏi này không phải là không xác đáng nếu như ta nhớ lại tuyên bố của ông Emmanuel Macron về Đài Loan hôm 11/04/2023. Lúc đó, tổng thống Pháp tuyên bố là châu Âu không nên ngả theo Mỹ hay Trung Quốc trong trường hợp xảy ra xung đột về Đài Loan. Dù được đính chính vài ngày sau đó nhưng tuyên bố đó cũng đã khiến các đồng minh của Pháp bối rối, nhất là Hoa Kỳ.

    Đơn thuần về mặt địa-chính trị, tổng thống Pháp chỉ nhấn mạnh đến một điều hiển nhiên, đó là lợi ích địa-chiến lược của Pháp không nằm trong khu vực này và bản đồ của Pháp về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương chỉ gồm Đông Thái Bình Dương, trái ngược với cách diễn giải về vùng Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ.

    Cách hiểu này của Pháp cũng có thể có giá trị đối với Biển Đông. Khó khăn cho Hà Nội là phải hiểu được thực chất sự ủng hộ của Pháp trong trường hợp khủng hoảng và hạn chế sẽ là gì ? Ngược lại, sự hỗ trợ của Hà Nội cho Paris có lẽ không phải là điều cần thiết trong trường hợp xảy ra xung đột giữa Pháp và Trung Quốc ở Nam Thái Bình Dương. Do đó, mối quan hệ chiến lược giữa Pháp và Việt Nam vẫn còn cả một chặng đường dài cần vượt qua và những năm tới chắc chắn sẽ quan trọng để nhìn nhận tiến triển.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn giảng viên Laurent Gédéon, Trường Sư phạm Lyon, Pháp.

  • Việt Nam tổ chức Triển lãm Quốc phòng Quốc tế lần thứ 2 tại Hà Nội từ ngày 10-22/12/2024. Đây sẽ là cơ hội để Việt Nam mở rộng tiếp xúc, tìm đối tác mới trong bối cảnh Nga - nhà cung cấp vũ khí lớn nhất của Hà Nội - vẫn bị trừng phạt do gây chiến ở Ukraina. Dù có ngân sách mua sắm vũ khí hàng năm khoảng 1 tỉ đô la, Việt Nam đã không ký bất kỳ hợp đồng nào năm 2023.

    Trong báo cáo ngày 11/03/2024, Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế (SIPRI) cho biết Hà Nội chỉ nhận một tầu hộ tống loại biên do Ấn Độ tặng. Giáo sư Carl Thayer cho rằng « Trung Quốc sẽ gia tăng lợi thế về sức mạnh quân sự quy ước nếu Việt Nam tiếp tục giậm chân tại chỗ ».

    Tại sao Việt Nam không nhập khẩu vũ khí năm 2023 ? Năng lực quốc phòng của Việt Nam sẽ bị tác động như nào ? RFI Tiếng Việt đặt câu hỏi với nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, chuyên về an ninh hàng hải và các vấn đề hải quân, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.

    RFI : Viện SIPRI cho biết Việt Nam gần như không mua vũ khí trong năm 2023. Cần hiểu sự kiện này như thế nào ?

    Nguyễn Thế Phương : Có nhiều lý giải cho sự kiện lần này. Thứ nhất, phải đặt trong bối cảnh là cuộc chiến Nga-Ukraina đang diễn ra hết sức khốc liệt. Có thể nói Nga là đối tác cung cấp vũ khí hàng đầu của Việt Nam. Việc Nga bị vướng vào cuộc chiến, bị phương Tây cấm vận và khả năng các quốc gia mua vũ khí của Nga sẽ bị cấm vận, đặt Việt Nam trong một tình thế khá là khó khi mà Việt Nam, ở thời điểm hiện tại, hầu như là không thể mua sắm các loại vũ khí mới.

    Nhưng nếu nhìn lại trong báo cáo, ngân sách quốc phòng của Việt Nam vẫn tăng. Vậy có thể hiểu như thế nào ? Ngân sách dành cho mua sắm vũ khí nước ngoài giảm xuống, chủ yếu vẫn là do cuộc chiến Nga và Ukraina và những vấn đề phức tạp địa-chính trị. Nhưng các chi tiêu khác cho quân đội vẫn gia tăng : Chi tiêu cho lương bổng, hỗ trợ, hành chính ; Chi tiêu liên quan đến vấn đề bảo trì-bảo dưỡng vũ khí ; Chi tiêu cho nghiên cứu khoa học. Đặt nghiên cứu này trong bối cảnh Việt Nam đã hướng tới ưu tiên phát triển một tổ hợp công nghiệp quốc phòng trong tương lai nên việc Việt Nam đầu tư, chi nhiều tiền vào nghiên cứu và phát triển cũng là việc hiển nhiên. Chưa kể đến việc sắp tới quy mô quân đội sẽ diễn ra nhiều thay đổi, ví dụ lục quân tái cấu trúc, chuẩn bị đầu tư một số dự án phát triển mới, do đó ngân sách quốc phòng sẽ tiếp tục tăng lên.

    Đọc thêm : Chính sách quốc phòng "Bốn Không" của Việt Nam và thực tế ở Biển Đông

    Thứ ba, hiện nay, tỉ lệ ngân sách quốc phòng trên tổng GDP của Việt Nam là dưới 3%. Trong tương lai, khi GDP tăng lên, rõ ràng số tuyệt đối về ngân sách quốc phòng sẽ phải tăng theo. Tỉ trọng chi tiêu quốc phòng so với GDP sẽ tăng. Và hai cái tăng này sẽ làm cho chỉ số tuyệt đối tiếp tục tăng mạnh hơn trong tương lai. Như báo cáo của SIPRI, tới năm 2030, tổng chi tiêu quốc phòng của Việt Nam sẽ là từ 10 đến 12 tỉ, chưa kể những chi tiêu mà Việt Nam không đưa vào ngân sách quốc phòng chính thức nhưng có liên quan đến quân đội, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến kinh tế của quân đội, ví dụ những tập đoàn kinh tế quân đội. Con số đó sẽ nhiều hơn 12 tỉ. Đó là lý do giải thích cho việc ngân sách quốc phòng của Việt Nam sắp tới sẽ vẫn tiếp tục tăng, nhưng chi tiêu cho mua sắm vũ khí nước ngoài sẽ giảm. Và hiện tượng đó bắt đầu từ cuộc chiến Nga và Ukraina năm 2022.

    RFI : Sự sụt giảm này có thể tác động như thế nào đến khả năng phòng thủ của Việt Nam, đặc biệt trong trường hợp xảy ra một cuộc xung đột trong vùng, theo như đánh động của một số chuyên gia ?

    Nguyễn Thế Phương : Việc này sẽ tác động tương đối lớn tới khả năng Việt Nam có thể tiến hành hoặc tham gia vào một cuộc xung đột cường độ cao, bởi vì quân đội là một mắt xích rất quan trọng trong toàn bộ hệ thống quốc phòng, cũng như các lực lượng vũ trang và họ sẽ là lực lượng gánh vác sứ mệnh cao nhất khi có xung đột cường độ cao xảy ra.

    Theo nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ 13, các lực lượng như hải quân, không quân, một số lực lượng tác chiến điện tử, lực lượng đặc biệt… sẽ được hiện đại hóa ngay lập tức. Mục tiêu này cho đến năm 2030 chắc chắn sẽ bị tác động tương đối lớn bởi cuộc chiến Nga-Ukraina, vì Nga là đối tác quốc phòng và an ninh quan trọng nhất của Việt Nam trong mua bán vũ khí, đặc biệt là những vũ khí lớn, ví dụ xe tăng, máy bay, tàu chiến.

    Đọc thêm : Tác động của chiến tranh Ukraina đến chương trình hiện đại hóa quân sự của Việt Nam

    Quá trình đa dạng hóa nguồn cung vũ khí từ nước ngoài đã diễn ra trước cuộc chiến Nga-Ukraina, nhưng còn chậm. Tuy nhiên, sau khi xảy ra chiến tranh Nga-Ukraina, quá trình này bắt đầu được đẩy nhanh hơn, với việc Việt Nam tiếp xúc với rất nhiều đối tác quốc phòng khác ngoài Nga, mà không phải là truyền thống. Đối tác truyền thống có có Israel, Ấn Độ. Bây giờ, Việt Nam bắt đầu mở rộng ra, có Nhật Bản, Hàn Quốc và một số quốc gia khác ở Đông Âu, Thổ Nhĩ Kỳ cũng đã có tiếp xúc.

    Sự kiện này cho thấy rằng Việt Nam đang cố gắng đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa nguồn cung nhưng không tiến triển nhanh được, cũng sẽ phải có một khoảng thời gian để Việt Nam có thể làm quen, tiếp xúc, để thay đổi một số cấu trúc bên trong quân đội để có thể thích ứng quá trình mới. Nhưng hiện nay, Việt Nam đầu tư cho các lực lượng, đặc biệt là các lực lượng hàng hải, ví dụ hải cảnh, dân quân biển, kiểm ngư, bởi vì trong nhãn quan của quân đội Việt Nam, ở thời điểm hiện tại, mối nguy hại cao nhất vẫn là những điểm nóng xung đột cường độ thấp.

    Cường độ thấp ở đây là gì ? Có thể hiểu một cách nôm na là chiến lược hoặc là chiến thuật « vùng xám » của Trung Quốc, có thể nhìn thấy rõ nhất thông qua những gì Trung Quốc đang làm với Philippines ở Bãi Cỏ Mây. Đó chính là xung đột cường độ thấp. Trung Quốc không sử dụng hải quân, không đe dọa tiến hành chiến tranh xâm lược vào lãnh thổ của một nước khác. Ít nhất là ở thời điểm hiện tại, họ chỉ sử dụng các lực lượng hải cảnh, dân quân biển để tăng cường sức ép lên quốc gia nhỏ hơn liên quan đến tranh chấp Biển Đông. Quân đội Việt Nam hiện nay ưu tiên kiểu này nhiều hơn, bằng chứng là họ đầu tư rất nhiều cho lực lượng hải cảnh, dân quân biển, kiểm ngư.

    Đọc thêm : Hợp tác an ninh hàng hải giữa Úc với Việt Nam sẽ “không phô trương” như với Philippines

    Trước mắt, quá trình hiện đại hóa không quân và hải quân, tức là những lực lượng chuyên biệt đối phó với các xung đột cường độ cao sẽ bị chững lại. Nhưng với ưu tiên quốc phòng của Việt Nam hiện nay, sự chững lại đó là chấp nhận được khi mà khả năng xảy ra xung đột cường độ cao không có nhiều. Hiện nay, mối đe dọa chủ quyền và an ninh lớn nhất đối với Việt Nam là các xung đột cường độ thấp do Trung Quốc gây ra. Vì thế hiện nay, song song với việc vẫn tiếp tục những yếu tố như quan hệ với các quốc gia, mở rộng và đa dạng hóa nguồn cung vũ khí, đầu tư vào công nghiệp quốc phòng nội địa, thì một phần nguồn lực quốc phòng sẽ đầu tư ngược lại cho các lực lượng chuyên đối phó với các xung đột cường độ thấp.

    RFI : Việt Nam chú trọng phát triển ngành công nghiệp quốc phòng trong nước. Lĩnh vực này hiện đáp ứng được đến mức nào nhu cầu của quốc phòng Việt Nam ?

    Nguyễn Thế Phương : Tổng Cục Công nghiệp Quốc phòng Việt Nam đã liệt kê ra một số mũi nhọn mà ngành công nghiệp quốc phòng và các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Việt Nam sẽ cố gắng đáp ứng trong tương lai. Danh mục đó khá là dài, nhưng tóm tắt lại thì có thể nói hiện nay, Việt Nam có khả năng làm chủ công nghệ sản xuất một số loại vũ khí liên quan đến bộ binh, như súng đạn, lựu đạn, pháo hoặc một số yếu tố liên quan đến công nghệ cao, tác chiến điện tử, thiết bị không người lái thì Việt Nam cũng dần dần tiếp cận được. Hoặc trong lĩnh vực đóng tàu, các loại tàu của cảnh sát biển, kiểm ngư, dân quân biển, thì ngành công nghiệp đóng tàu nội địa Việt Nam, cả dân sự lẫn quân sự, đều đã có khả năng đóng những lớp tàu đó.

    Đọc thêm : Việt Nam gia tăng hợp tác quân sự với Israel nhằm làm chủ công nghệ quốc phòng

    Nhưng vấn đề ở đây là những loại thiết bị công nghệ cao thì hiện giờ Việt Nam vẫn hoàn toàn phải nhập khẩu, đặc biệt là các loại công nghệ nền và công nghệ lõi để vũ khí đó có thể vận hành được. Do đó, năng lực của công nghiệp quốc phòng Việt Nam, mặc dù đã phát triển hơn trước rất nhiều, rất là tốt so với trước đây, không những phục vụ cho nhu cầu của quân đội Việt Nam mà một số sản phẩm hoặc bán thành phẩm của công nghiệp quốc phòng Việt Nam đã được xuất khẩu ra nước ngoài, nhưng đó chỉ là những sản phẩm có nền công nghệ ở tầm thấp đến tầm trung. Những sản phẩm đó chỉ đáp ứng một phần khả năng, cũng như nhu cầu của quân đội.

    Đặc biệt ngay cả trong tương lai tầm trung từ 10-15 năm, Việt Nam vẫn chưa có khả năng tạo ra được một loại vũ khí lớn, ví dụ máy bay, tầu chiến. Do đó, hiện tại vẫn cần có thời gian rất dài để có thể có đủ nguồn lực để đầu tư tập trung phát triển công nghệ, tiếp theo là tập trung công nghệ. Muốn làm được việc đó, hiện nay phải đi tìm và chi nguồn lực cho vấn đề đó. Đây cũng là một phần lý do giải thích tại sao ngân sách quốc phòng sẽ vẫn tiếp tục tăng trong tương lai.

    RFI : Nhật Bản sửa đổi chính sách, bật đèn xanh cho xuất khẩu chiến đấu cơ hợp tác chung với Ý và Anh. Việt Nam được nêu trong danh sách các thị trường tiềm năng. Về lâu dài, liệu Nhật Bản sẽ trở thành đối tác bền vững của Việt Nam ?

    Nguyễn Thế Phương : Nhật Bản là một trong những đối tác đang nổi của quốc phòng và an ninh Việt Nam, cũng như là của ngành công nghiệp quốc phòng. Ngoài Nhật Bản, còn có Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác, một số quốc gia phương Tây, Thổ Nhĩ Kỳ, Israel, Ấn Độ.

    Vấn đề ở đây là từ « tiềm năng » đến « thực tế » là một khoảng cách tương đối xa và cần nỗ lực rất lớn của cả Việt Nam và Nhật Bản trong việc định hình chính sách cụ thể để biến « tiềm năng » thành thực tế. Việc này thực sự không đơn giản và cần thời gian. Ví dụ sẽ phải xác định xem lĩnh vực nào, loại khí tài cụ thể nào cả hai bên mong muốn phát triển hoặc trao đổi mua bán với nhau, số lượng như nào. Đặc biệt Việt Nam sẽ mong muốn rằng nếu có khả năng, Nhật Bản sẽ chuyển giao một số loại công nghệ quốc phòng cho Việt Nam. Và Việt Nam cũng phải xác định cụ thể Nhật Bản có thế mạnh gì. Sự sẵn sàng của Nhật cũng rất quan trọng, bởi vì toàn bộ hệ thống công nghệ quốc phòng của Nhật Bản liên quan mật thiết đến công nghệ quốc phòng của Mỹ. Mối quan hệ quốc phòng Việt-Nhật có thể phát triển tốt cũng dựa vào mối quan hệ Việt - Mỹ tốt đẹp.

    Đọc thêm : Nhật Bản, Việt Nam ký thỏa thuận chuyển giao thiết bị, công nghệ quốc phòng

    Cho nên, tiềm năng là có và tương đối lớn. Nhưng vấn đề đặt ra ở đây vẫn là các chính sách tư duy cụ thể để biến tiềm năng thành thực tế. Trong trường hợp của Việt Nam, những điểm này không nhanh được, cần thời gian và trong nhiều trường hợp là cần khá nhiều thời gian để biến thành hiện thực. Cho nên, hãy đặt kỳ vọng đó trong giai đoạn 10 năm. Sau năm 2030 mới kỳ vọng thấy được điều gì đó cụ thể. Còn từ đây đến 2030 chỉ là quá trình đặt nền tảng cho quan hệ quốc phòng Việt-Nhật chứ chưa có gì nổi trội. Cùng lắm là Việt Nam có thể mua một số khí tài đã qua sử dụng của Nhật Bản, cũng không phải là những khí tài lớn, không phải máy bay, xe tăng hay tầu chiến, mà là chuyển giao công nghệ, hoặc những khí tài như tên lửa nhưng đã qua sử dụng.

    Thứ hai, tiềm năng giữa Việt Nam và Nhật Bản về hợp tác an ninh quốc phòng cũng phải đặt trong bối cảnh Việt Nam quan tâm nhất hiện nay đến việc gì. Đó chính là xung đột cường độ thấp và sẽ tập trung nhiều hơn vào những "phần mềm" của hợp tác quốc phòng : huấn luyện, trao đổi đoàn, hỗ trợ ODA, một số tàu tuần tra… Những điểm này sẽ được tiếp tục đẩy mạnh. Còn về xung đột cường độ cao liên quan đến những vũ khí lớn thì phải cần rất nhiều thời gian.

    RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn nghiên cứu sinh Nguyễn Thế Phương, Đại học New South Wales, tại Canberra, Úc.